Lúc tôi tới Sydney tháng Hai năm 1981, chưa có định chế sau này được gọi là Cộng đồng Công Giáo Viêt-Nam, Sydney. Cũng không có một linh mục Việt Nam nào được bổ nhiệm làm tuyên úy cho những người tỵ nạn Công Giáo Viết Nam lúc ấy mỗi ngày một thêm đông. Còn nhớ, dù linh mục Nguyễn Hoàng Phước, một linh mục Việt Nam được Đức Cha Nguyễn Văn Thuận của giáo phận Nha Trang cử sang du học, hết sức vận động để Đức Hồng Y James Freeman bổ nhiệm làm tuyên úy cho cộng đồng này, nhưng vị Hồng Y đáng kính vẫn duy trì Cha John, một linh mục gốc Ái Nhĩ Lan, ở chức vụ tuyên úy cho cộng đồng Việt Nam, một điều mà trong một thỉnh nguyện thư, Cha Phước gọi là “nghịch lý”.
Khỏi nói, thì thừa tác vụ duy nhất mà cha John có thể cung cấp là thánh lễ cuối tuần. Không có gì khác. Cha Nguyễn Văn Đồi chỉ đến Úc vào tháng 12 năm 1981, theo tài liệu của Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm trong tiểu luận “Linh Mục Tiến Sĩ Giáo Sư Nguyễn Văn Đời (1932-2006)”. Tác giả này không cho biết, duyên cớ nào đưa ngài về giáo xứ St Therese, Lakemba, phụ trách một trong ba trung tâm sinh hoạt dành cho người Công Giáo Việt Nam thuộc tổng giáo phận Sydney. Hai trung tâm kia, Cabramatta được trao cho Cha Trần Quang Thiện, Marrickville được trao cho Cha Vũ Đức Thông. Lúc ấy, tôi đang sống ở Campsie, nên thuộc trung Tâm Lakemba của Cha Đồi.
Từ ngày rời bỏ Giáo Hoàng Học Viện Thánh Pi-ô X ở Đà Lạt, xuống dưới Sài gòn gia nhập hàng ngũ giáo dân, tôi ít khi liên hệ gần gũi với hàng giáo sĩ và sinh hoạt giáo hội, không hẳn vì ác cảm cho bằng vì lo học hành và kiếm kế sinh nhai cho gia đình với năm con nhỏ. Ở Nhà Thờ St Felix, Bankstown, nơi tôi thường tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật vào những tháng đầu tiên của năm 1981, mỗi lần nghe bài hát trong đó có câu I will go, Lord, If You lead me của Dan Schutte, tôi đều như muốn khóc, có cảm giác như Chúa đã dẫn tôi rồi mà nào tôi có “go”. Tôi vẫn coi việc mình rời bỏ ơn gọi linh mục như một thất bại bản thân. Làm sao tôi có ác cảm với Giáo Hội cho được! Nên rất ngạc nhiên, khi vào năm 1985, Cha Nguyễn Văn Đồi yêu cầu tôi phụ trách việc dạy giáo lý cho các cặp sắp kết hôn tại cộng đoàn do Cha phụ trách.
Tôi thưa với ngài rằng: con biết gì mà dạy! Ngài vặn lại: anh nói sao, từng học ở Giáo Hoàng Học viện mà lại không biết gì sao! Thế là tôi đi dạy giáo lý cho các cặp sắp kết hôn từ đó. Đến nay, đúng 40 năm trường! Và nếu Chúa thương còn cho sống trên cõi đời này, thiết tưởng, tôi vẫn sẽ tiếp tục đến lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Sydney hàng năm, mặc dù sức khỏe nay đã giảm đi nhiều, sau một năm [2024] liên tục nằm bệnh viện 2 lần để được giải phẫu mất rất nhiều máu trong 6 tiếng đồng hồ lấy máy Defibrillator ra khỏi lồng ngực vì nó gây nhiễm trùng, và 2 tháng sau đó, giải phẫu cắt một nửa dạ dầy vì bị ung thư.
Dù gì thì cũng không bao giờ tôi đền được ơn giáo hội đã thực sự nuôi dưỡng tôi cả vật chất lẫn tinh thần từ năm 1953 đến năm 1966 ở các Tiểu chủng viện Chân Phúc Liêm của Giáo Phận Hải Phòng, và Phanxicô Xaviê của Giáo phận Bùi Chu, và Giáo Hoàng Học Viện Piô X của Các Cha Dòng Tên ở Đà-Lạt.
Dù Cha Nguyễn Văn Đồi xuất thân từ môi trường trí thức, học hành nhiều năm tại Pháp và Hoa Kỳ đến nhiễm cả cách ăn uống của người phương tây, như Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm từng cho thấy. Đến khi về Việt Nam, lại hết làm tuyên úy cho quân đội Hoa Kỳ ở Mỹ Tho, rồi sau đó làm khoa trưởng Đại Học Khoa Học của viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt cho đến ngày Miền Nam rơi vào ách Cộng Sản, ít phụ trách thừa tác vụ giáo xứ, nhưng tại Lakemba, Cha rất lưu ý đến việc chuẩn bị giáo lý hôn nhân cho các cặp đã đính hôn. Có lần Cha nói với các cặp này: làm thư ký quèn cũng còn phải học cả năm, vậy mà chuyện kết hôn quan trọng cả đời, học một ít tuần đã cho là quá nhiều, tìm cách trốn tránh! Tuy thế, Cha lưu ý vì sự cần thiết của nó chứ không hẳn vì số cặp đến xin học.
Đúng vậy, số cặp đến xin học vào lúc đó rất ít, không đủ để đếm trên năm đầu ngón tay! Tôi nhớ, lớp đầu tiên chỉ có duy nhất một cặp đó là anh Dũng và chị Duyên. Cuộc hôn nhân của họ đến nay vẫn keo sơn gắn bó. Tạ ơn Chúa. Lớp thứ hai khá hơn, hình như được 3 cặp rưỡi! Tôi và Bác sĩ Vũ Văn Hào vẫn vui vẻ tiếp tục đến lớp như thường lệ.
Phải đến lúc Cộng đồng Công Giáo Việt Nam ở Sydney được chính thức thành lập vào năm 1987, thời Đức Hồng Y Edward Clancy, nhất là từ đầu thập niên 1990, lúc cộng đồng sinh hoạt hết sức rầm rộ với sự hiện diện của gần 10 cha Tuyên Úy, trong đó có Cha Paul Chu Văn Chi, Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân trở thành một định chế đi vào qui củ cả về học trình lẫn nhân sự, và số học viên tăng lên một cách đáng kể.
Thực vậy, học trình gồm hai phần đều nhau kéo dài 16 tuần lễ: phần giáo lý và phần nhân bản. Phần giáo lý do các linh mục phụ trách, phần nhân bản do các giáo dân. Phần giáo lý gồm các đề tài Hôn nhân Công Giáo, Đức tin và Hôn nhân, Giáo luật về Hôn nhân, Phụng vụ và Bí Tích, Mười Điều Răn, Kế hoạch hóa Gia đình, Giáo dục Gia đình. Phần nhân bản gồm các đề tài: Tâm lý Nam Nữ, Tình yêu và Tính dục, Đối thoại trong Hôn nhân, các Thách đố trong Hôn nhân, Luật Pháp Nước Úc và Hôn Nhân, Sinh lý trong Hôn nhân, Dưỡng thai Dưỡng nhi. Một buổi hội thảo xoay quanh chủ đề Sống Đẹp trong Hôn nhân với sự tham dự của một số nhân vật trong Cộng Đồng và một buổi dành cho việc ôn tập và thi trắc nghiệm.
Phần nhân sự phải kể là hùng hậu: bao nhiêu đề tài là bấy nhiêu giảng viên. Hầu hết các linh mục tuyên úy đều phụ trách ít nhất một đề tài giáo lý, kể cả linh mục tuyên úy trưởng. Và phần nhân bản cũng thế: bao nhiêu đề tài là bấy nhiêu giảng viên. Chúng tôi có luât sư, bác sĩ, nhân viên xã hội và nhân sĩ am hiểu các vấn đề hôn nhân theo viễn ảnh Công Giáo. Thiển nghĩ khuôn khổ tổ chức như thế là điều hiếm hoi, ít nhất ở môi trường Úc Châu.
Mọi sự diễn tiến thật tốt đẹp. Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân của Cộng Đồng Công Giáo Sydney có lúc đón tiếp tới hơn 100 học viên. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, với việc Đức Hồng Y Edward Clancy về hưu và được kế nhiệm bởi Đức Hồng Y George Pell, một cuộc khủng hoảng lãnh đạo diễn ra trong Cộng đồng Công Giáo Việt Nam Sydney, như Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm, dựa vào tin tức của tiến sĩ Phạm Văn Lưu, một bạn cố tri của Linh Mục Nguyễn Văn Đồi, đã diễn tả trong tiểu luận “Linh Mục Tiến Sĩ Giáo Sư Nguyễn Văn Đời (1932-2006)”. Theo ông, do bị tố cáo quản lý tài chánh kém, và theo Linh mục Nguyễn Khoa Toàn, vị linh mục kế nhiệm ngài, trong điếu văn tang lễ ngài năm 2006, do một “một vài sự việc mà có thể ngài đã rất vô tình gây ra… những tiếng thị oan, những hiểu lầm, những tố cáo vô căn cứ, vu vơ”, Linh mục Nguyễn Văn Đời đã bị Tòa Tổng Giám Mục Sydney điều tra, đưa đến việc ngài phải rời chức vụ Tuyên Úy Trưởng, trước khi được minh oan hòan toàn. Cùng với biến cố này, Đức Hồng Y George Pell cho tiến hành một chính sách mới đối với việc lãnh đạo Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo Phận của ngài: từ nay, tuyên úy trưởng của Cộng Đồng phải là một linh mục được huấn luyện tại chủng viện Úc.
Với chính sách trên, có lúc Cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney được lãnh đạo bởi một linh mục chỉ mới được thụ phong khoảng trên dưới 5 năm với nhiều linh mục đã thụ phong trước đó cả hai, ba chục năm, thậm chí bốn năm chục năm, dưới quyền!
Chính sách ấy có thể đã mang lại một bầu khí mới mẻ cho Cộng Đồng, đi vào qui củ hơn, theo nhãn quan của Đức Hồng Y George Pell. Nhưng trong việc thi hành đường hướng lãnh đạo mới, một vài chương trình của cộng đồng bị nhìn một cách ngờ vực theo nghĩa “phí phạm, trùng lắp”. Một trong các chương trình đó, chẳng may, là Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân, bị coi là trùng lắp với chương trình dự bị hôn nhân của Tổng Giáo Phận do Centacare đảm trách.
Linh mục tuyên úy đặc trách Ban Truyền Giáo, mà Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân vốn thuộc về, là Cha Paul Chu Văn Chi, yêu cầu tôi làm tờ trình nêu rõ lý do tại sao cần phải duy trì Lớp Giáo Lý này. Tôi vâng lời, nêu hai lý do chính. Thứ nhất, không giống như Chương trình Dự bị Hôn nhân của Centacare, chỉ tập chú vào khía cạnh nhân bản (1), Chương trình của Lớp Giáo lý Dự Bị Hôn Nhân của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney, như tên của nó đã đủ cho thấy, gồm hai phần: phần giáo lý và phần nhân bản, với số đề tài và thì giờ dành cho hai phần này hoàn toàn ngang bằng nhau. Thứ hai, đây là một chương trình hoàn toàn miễn phí, các học viên không phải đóng một đồng xu nào cho một khóa học kéo dài 16 tuần lễ, thay vì lệ phí gần 400 dollars đóng cho 3 buổi học của Centacare, ngoài lệ phí 15 dollars trả cho cuốn tài liệu “Hôn Nhân Công Giáo” dầy đến hơn trăm trang khổ giấy A4 khuôn chữ Times New Roman 12, gồm các tài liệu được trình bầy trong chương trình!
Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân được “âm thầm” cho phép tiếp tục. Nhưng một phần do “nhuệ khí” giảm đi, một phần do con số người Việt Nam được thụ phong linh mục cho Tổng Giáo Phận Sydney ngày một gia tăng và được bổ nhiệm làm chánh xứ tại các giáo xứ lân cận, cũng tổ chức các lớp Dự Bị Hôn Nhân, với một chương trình rút gọn, tỏ ra “thuận tiện” cho nhiều học viên hơn, nên con số học viên của Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân của Cộng Đồng Công Giáo Viêt Nam giảm đi một cách thê thảm. Có lúc, con số ấy thua xa con số giảng viên! Và có một lần, một lần duy nhất, Lớp chỉ đón nhận một học viên duy nhất, đành phải giải tán, hẹn gặp lại khóa sau trong năm!
Điều thật an ủi là các giảng viên giáo dân vẫn một lòng gắn bó với Lớp. Không một giảng viên nào rời bỏ Lớp, kể cả giảng viên luật sư và giảng viên bác sĩ. Phần các linh mục tuyên úy, con số các ngài giảm dần. Có lúc chỉ còn 3 vị rưỡi vì linh mục tuyên úy trưởng phải kiêm nhiệm chánh xứ các xứ đạo lớn của Úc. Số giáo dân thì càng ngày càng tăng với 8 giáo đoàn phải trông coi trên địa bàn khá rộng của Tổng Giáo Phận Sydney, thêm nhiều hội đoàn mới được thành lập như Chương trình Thăng tiến Hôn nhân, Hội Lòng Chúa Thương Xót… Các ngài rơi vào vòng xoáy “mờ cả mắt”, đến quên cả giờ dạy ở lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân, hoặc nếu có nhớ, thì cũng đến Lớp qua loa, sau đó phải đi “giải tội” trước khi cử hành Thánh Lễ. Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân không tránh khỏi “chiều đi xuống”… Nhưng được các giảng viên giáo dân đảm nhiệm thêm các đề tài giáo lý, nên chương trình giảng dạy tiếp tục duy trì được khuôn khổ cũ.
Mấy năm gần đây tình thế bỗng nhiên trở thành thuận lợi cho Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Sydney về mặt số học viên tham dự. Một phần có lẽ do Lớp rút ngắn thời lượng giảng dạy từ 16 tuần xuống 15 tuần (bỏ tuần hội thảo) rồi từ 15 tuần xuống còn 7 tuần như hiện nay. Tuy nhiên, các đề tài giảng dạy vẫn được duy trì như cũ, chỉ rút ngắn từ hai giờ xuống còn 1 giờ rưỡi cho mỗi đề tài và mỗi tuần, thay vì học một đề tài trong 2 giờ, nay học hai đề tài trong 3 giờ đồng hồ.
Nhưng có lẽ có một lý do khác. Con số người Việt Nam nhập cảnh Úc gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây, do du lịch và nhất là do du học, rồi tìm cách xin định cư tại Úc qua ngả hôn nhân. Con số học viên của Lớp tăng nhanh trông thấy. Có những năm, chúng tôi phải tổ chức đến 3 khóa thay vì 2 khóa như thường lệ.
Với viễn ảnh Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Sydney sắp có trụ sở vĩnh viễn tại giáo xứ St Therese, Lakemba, một vùng ngoại ô Tây Nam Sydney, không phải “lang thang” như trước, và có thêm 3 linh mục tuyên úy trẻ nữa, Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân sẽ ngày càng khởi sắc trong việc phục vụ các cặp đính hôn của Cộng Đồng, giúp họ đôi chút hành trang cho cuộc hành trình hôn nhân dài của họ.
Bản thân tôi, nhờ Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân này, học hỏi được nhiều điều hữu ích liên hệ tới mọi khía cạnh của hôn nhân, cả nhân bản lẫn tín lý, mà trước đây, mình hết sức mù mờ. Thành thử, vào những buổi học cuối cùng, các học viên thường có lời cám ơn tôi, nhưng tôi đều đáp lại các em: tôi phải cám ơn các em, vì sự tích cực tham dự của các em đã giúp tôi học hỏi được rất nhiều điều. Ít nhất, những điều tôi học hỏi được cũng đã được in thành sách ở Việt Nam đó là cuốn “Hôn nhân, Đức tin, và Tình yêu” và cuốn “Linh đạo Hôn nhân Hiện đại”. Ngoài hai cuốn này, tôi còn phổ biến trên trang mạng VietCatholicNews nhiều tài liệu khác xa gần có liên quan tới hôn nhân như “Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình, Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối, Vatican 1996”, “Tin mừng Gia đình” (nguyên tác của Đức Hồng Y Walter Kasper), “Tin mừng Gia Đình trong nền văn hóa bão hòa về tình dục” (nguyên tác của Juan José Pérez-Soba và Stephan Kampowski, phản pháo quan điểm của Đức Hồng Y Kasper), “Lược sử Công Giáo về Tính dục”, “Lịch sử tính bất khả tiêu hôn nhân trong Đạo Công Giáo”, “Cuộc tranh luận về tính bất khả tiêu của hôn nhân”, “Vấn đề ly dị và tái hôn trong Đạo Công Giáo”, “Tông huấn Niềm vui Yêu thương [Amoris Laetitia] của Đức Phanxicô…
Tôi rất vui mừng và biết ơn khi Ban Tuyên Úy của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Sydney cho phép duy trì Lớp Giáo Lý Dự Bị Hôn Nhân với hai phần giáo lý và nhân bản của nó. Thiết tưởng với hai phần đó, Lớp đã đáp ứng thỏa đáng hoài mong của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình, tiền thân của Thánh Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống hiện nay, trong “Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối năm 1996” của họ: “Ta nên cung ứng ‘một cuộc hành trình tìm kiếm đức tin giống như cuộc hành trình dự tòng’ (Familiaris Consortio số 66), và trình bầy các chân lý Kitô giáo căn bản có thể giúp những người sắp kết hôn thủ đắc hoặc củng cố được sự trưởng thành trong đức tin của họ. Điều đáng ước mong là phải biến những giây phút thuận lợi trong việc chuẩn bị hôn nhân này thành một cuộc Tân Phúc Âm Hóa cho các gia đình tương lai” (Dẫn nhập).
Tưởng cũng nên biết, trong buổi yết kiến dành cho Tòa Thượng Thẩm Rôma ngày 21 tháng 1 năm 2017, Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô cũng đề cập đến một “giai đoạn dự tòng mới” trong việc chuẩn bị hôn nhân:
“Do đó, điều cần thiết là những người làm việc và các tổ chức chịu trách nhiệm chăm sóc mục vụ cho gia đình được động viên bởi mối quan tâm mạnh mẽ trong việc làm cho các chương trình chuẩn bị bí tích hôn nhân ngày càng hữu hiệu hơn, không chỉ vì sự phát triển nhân bản, mà trên hết là vì đức tin của cặp đính hôn. Mục tiêu cơ bản của các cuộc gặp gỡ là giúp các cặp đính hôn nhận ra sự hội nhập dần dần vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, trong Giáo hội và với Giáo hội. Điều này mang lại sự trưởng thành dần dần trong đức tin, thông qua việc công bố Lời Chúa, gắn bó với và quảng đại theo Chúa Kitô. Mục đích cuối cùng của sự chuẩn bị này bao gồm, cụ thể là, giúp các cặp đính hôn biết và sống thực tại hôn nhân mà họ dự định cử hành, để họ có thể làm như vậy không những hợp lệ và hợp pháp, mà còn sinh hoa trái, và họ có thể sẵn sàng biến việc cử hành này thành một giai đoạn trên hành trình đức tin của họ... Trong tinh thần này, tôi muốn nhấn mạnh đến nhu cầu về một ‘giai đoạn tân dự tòng’ để chuẩn bị hôn nhân…”
__________________________________________________________________
(1) Khóa chuẩn bị hôn nhân do Centacare tổ chức hiện được gọi là “The Becoming One Course” kéo dài 3 hay 4 đêm trong tuần, gồm các đề tài sau đây: Ngôi nhà của mối quan hệ lành mạnh – 7 nguyên tắc xây dựng mối quan hệ lành mạnh ổn định • Ngôn ngữ tình yêu • Gia đình gốc • Sự gắn bó trong các mối quan hệ của người lớn • Những ảnh hưởng trong xung đột • Dấu hiệu cảnh báo thông đạt• Kỹ năng thông đạt, bao gồm Kỹ thuật người nói-người nghe • Sự xao nhãng kỹ thuật số trong các mối quan hệ • Các giá trị, nghi lễ kết nối và xây dựng tầm nhìn chung về hôn nhân. Lệ phí tham dự vào thời gian tờ trình của tôi là 365 Dollars, hiện là 450 dollars.