CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN NĂM C : LC 14,1.7-14
1Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa; họ để ý dò xét Người.
7Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên mới nói với họ dụ ngôn này : 8“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng : ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói : ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
12Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng : “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc : vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
ĐIỀU KIỆN DỰ YẾN NƯỚC TRỜI
Hãy tưởng tượng một đám cưới Do-thái được tổ chức vào một buổi chiều muộn đầy nắng và gió, với số khách mời ấn tượng chen chúc quanh cái tán kết bằng hoa, biểu tượng của loan phòng. Bên dưới tán, trước mặt vị giáo sĩ Do-thái, chú rể đang đeo nhẫn vào ngón tay cô dâu, thốt lên công thức từ sách Talmud : "Nay với chiếc nhẫn này, em được trao hiến cho anh, theo luật Mô-sê và luật Ít-ra-en." Tiếp đến là nghi thức đọc và ký ketubah, văn kiện pháp lý đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ vợ chồng. Khắp sân, các bàn đang chờ đón khách mời cho bữa tiệc long trọng. Một số đã ngồi vào những vị trí ngon nhất, nhiều kẻ khác đang cố gắng chen giữa đám khách bao quanh đôi tân hôn để gần cô cậu hơn nữa, khi một ly rượu chát được rót ra sau bảy lời chúc tụng Thiên Chúa đã tạo nên sự kỳ diệu say đắm của tình yêu nhân loại. Với nghi thức rất bình dân và nhiều gợi ý này, đôi tân hôn được nhắc nhở rằng không ai -ngay cả các cặp tình nhân hạnh phúc nhất- có thể có được niềm vui trọn vẹn, bền vững, chẳng bị cái gì làm rạn nứt, thành thử họ luôn phải nỗ lực vun đắp, giữ gìn.
1- Ứng xử khiêm tốn
Từ khung cảnh đông đúc này, sự suy nghĩ hướng về đoạn văn mà phụng vụ Chúa nhật mang đến cho chúng ta hôm nay. Đức Giê-su cũng từng quan sát với một chút mỉa mai những kẻ dự tiệc (loại tiệc Người đã nhiều phen được mời), tất cả đều cố gắng chiếm những chỗ ngồi tốt nhất. Và như thường lệ, Người lấy cảm hứng từ những nỗi khổ to nhỏ, những tính hạnh tốt xấu và những cử chỉ thường nhật để xây dựng sứ điệp của mình.
Thoạt nhìn, ta tưởng đây là một bài học luân lý về phép lịch sự : chớ kiêu ngạo, hãy khiêm tốn, hay tệ hơn là kiểu mách nước một mánh khóe ngõ hầu được nổi trong bàn tiệc. Không ! Chữ “dụ ngôn” nơi c. 7b và 2 động từ ở thể thụ động (hiểu ngầm Thiên Chúa là túc từ tác nhân) nơi c. 11 cho thấy Đức Giê-su muốn nói với chúng ta về Thiên Chúa và về Nước Trời xoay quanh chữ khiêm tốn, tự hạ : Thiên Chúa là Đấng như thế nào và đâu là điều kiện thiết yếu để được nhận vào Thiên quốc?
Trong thế giới hiện thời, tự hạ bị coi là một thái độ đáng khinh, xem như giảm giá trị. Trong ngôn ngữ thông dụng, lòng khiêm tốn bị gán cho một nghĩa gần như xấu xa. Đó là phục tùng, đào nhiệm, nhượng bộ, đầu hàng trước kẻ khác. Người nhường chỗ của mình có nguy cơ tỏ ra như một kẻ tội nghiệp, bị thiên hạ nghĩ rằng y không thể làm khác. Trước não trạng này, Đức Giê-su hôm nay bày tỏ một Vương quốc trái ngược với mọi vương quốc, một Thiên Chúa đối nghịch với vị TC mà chúng ta dễ dàng tưởng tượng. Vậy trước hết hãy chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong Đức Giê-su.
Đang khi Người có quyền “duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (Pl 2,6), Đức Giê-su đã chọn đặt mình vào chỗ rốt cùng. Trong cảnh rửa chân môn đệ, chúng ta đã thấy Thiên Chúa “áo ngoài cởi, khăn thắt lưng”, “quỳ dưới chân con người”, “rửa đôi chân nhơ bẩn của nhân loại”. Chúng ta đã thấy Thiên Chúa phục vụ mọi người, vì đó chính là hình ảnh trước của Thập giá. Sự cao cả đích thực của Thiên Chúa là đấy : “Giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27). Đức Giê-su đã không giả bộ chọn chỗ cuối. Người đã thực sự biến mình thành tôi tớ cho chúng ta.
Chọn việc phục vụ, hầu hạ, đó là bắt chước Thiên Chúa. Lý do khiến chúng ta được mời vượt quá phán đoán bất lợi của thế giới hiện đại về những kẻ “bé mọn, nghèo khổ, thấp hèn”, đó là vì Thiên Chúa như vậy. Người ta có quyền tự hỏi tại sao Đức Giê-su đã “đã chiếm lấy vị trí cuối cùng đến mức sẽ chẳng bao giờ có ai chiếm được nữa.” (Lm Huvelin). Vậy đâu là lý do biện minh cho những kiểu tự hạ của Đức Giêsu, tự hạ “cho đến chết và chết trên thập giá”?
Ý nghĩa của “chỗ rốt cùng” này phải tìm bên kia lý trí nhân loại : trong chính Hữu thể của Thiên Chúa ! “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha !” (Ga 14,9). Khi nao chúng ta mới hiểu được rằng Thiên Chúa là hành vi yêu thương thuần túy? sự hiến thân hoàn hảo? chẳng chút hạn chế? không tự khép mình? Thiên Chúa, đó là Ba Ngôi mà mỗi ngôi chẳng có gì riêng, ngoại trừ việc trọn vẹn sống cho hai ngôi còn lại. Và thập giá của Đức Giê-su chỉ thuần là sự hiển linh, việc mạc khải sang ngời và chói mắt của thực tại Ba Ngôi ấy. Thiên Chúa, đó là hành vi mến thương cao cả mà chúng ta gọi là tình yêu điên cuồng, nhưng tuyệt đối tự nhiên với Cha, như với Con, như với Thánh Thần. Thiên Chúa không làm gì khác ngoài việc hiến thân trọn vẹn, bằng cách chọn chỗ rốt hèn để nhường chỗ cao trổi cho kẻ khác. Ai biết yêu là gì thì hiểu điều đó. Ai không biết yêu, thì sẽ chẳng bao giờ hiểu. Ai làm đầy tớ, làm kẻ phục vụ rốt cùng, đó là người có tình yêu hơn cả.
Cũng trong dụ ngôn ngắn gọn về chỗ ngồi bàn tiệc này, Đức Giê-su đưa ra một quy tắc để được vào Vương quốc Thiên Chúa. Thói muốn ngoi lên, lòng kiêu căng và óc tự mãn đều là những trở ngại; trái lại, sự đơn sơ, khiêm nhường và tôn trọng công lý mới là những điều kiện lý tưởng để đi vào đó. Nguyên tắc cơ bản của bàn tiệc Nước Trời là : "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Nước Trời đòi hỏi con người phải từ bỏ mọi tham vọng tự cứu rỗi, dựa trên danh vị cá nhân của mình. Thật thế, cái giúp tôi có được một chỗ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa đâu phải là đức công chính của riêng tôi, mà trước hết và quan trọng nhất là ân sủng của Người. Thế nên, chính Người phán với tôi : "Xin mời ông bạn lên trên cho." Do đó, chúng ta có thể tự vấn bản thân bằng những lời thánh Phao-lô từng viết cho tín hữu Phi-líp-phê : "Đừng làm chỉ vì tranh chấp hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhượng mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho chính mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (2,3-4). Cũng chính thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma đã khuyên nhủ : "Hãy hiệp lòng hiệp ý với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn" (12:16).
2- Đãi kẻ khiêm hèn
Nhưng còn một quy tắc khác cho bàn tiệc Nước Thiên Chúa. Quy tắc này nằm trong phần hai của đoạn Tin Mừng hôm nay. Cùng một cấu trúc như trên, phần này nói đến việc chọn lựa các khách tiệc. Đức Giê-su nhắc nhở chủ nhà rằng việc mời và giúp thân nhân bè bạn là một dấu chỉ của tình yêu dễ dãi và tự phát thôi. Việc chớ tìm sự “có qua có lại” khiến ta nhớ đến giáo huấn ở 6,32-34. Nó cũng đi từ một nhận xét : giới tinh hoa xã hội bấy giờ gồm các kinh sư và Pha-ri-sêu (Biệt phái) thường chỉ mời nhau dự tiệc. Ngôn ngữ khôn ngoan của Đức Giê-su chẳng phải là không song song với đoạn văn chương A-ram này : “Hãy đón vào nhà ngươi kẻ thấp kém hơn ngươi và kẻ chẳng giàu bằng ngươi; nếu y ra đi mà không trả lại cho ngươi, thì Thiên Chúa sẽ trả” (Khôn ngoan Ahikar 3,31). Nhưng ý của Đức Giê-su triệt để hơn nhiều : chớ mời bạn bè có các phương tiện (vật chất, tài chánh, văn hóa hay tinh thần) để trả lại cho anh tương xứng, mà hãy hướng lòng về những kẻ bị xã hội khai trừ, loại bỏ. Bốn hạng xấu số nêu tên đều thiếu khả năng hay tiền bạc; họ chẳng có chỗ giữa giới phú quý giàu sang vị vọng. Dựa vào Lv 21,17-21 và 2Sm 5,8, một bản văn phái Essenoi tại Qumrân xác định, cách khá đặc trưng, rằng những kẻ tật nguyền như thế đều bị loại khỏi phụng vụ của cộng đoàn các kỳ mục. Một chỗ sẽ dành cho họ trong dụ ngôn tiếp (14,16-24) : các hạng xã hội nêu tên ở 14,13 sẽ được tìm thấy ở 14,21.
Và lúc đó nổi lên một mối phúc mang tính cách nghịch lý trong phần đầu (c. 14a Họ không có gì đáp lễ) : hoàn cảnh khó chịu về phương diện nhân loại là nguyên nhân khiến người ta được tuyên bố “có phúc”. Một đòi hỏi tương tự cũng sẽ được đưa ra từ 14,25tt. Tuy nhiên mối phúc vẫn kết luận bằng một sự “có qua có lại” khá bất ngờ : vì những kẻ được mời thiếu mọi phương tiện, nên chính Thiên Chúa sẽ là con nợ; Người sẽ thanh toán nợ khi phục sinh những kẻ lành. Sự báo ứng duy nhất phải tìm kiếm, đó là sự báo ứng mà Thiên Chúa sẽ là tác giả trong ngày Chung thẩm.
Thành ra phải nhớ : tín hữu đích thực phải mời những kẻ "nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" để thật sự "có phúc", tức là được tham dự vào niềm vui Nước Trời. Một tình yêu vị tha, tự do, toàn diện, quảng đại, sáng tạo, thực sự mang tính cách mạng, xóa bỏ những luật lệ kinh tế cứng nhắc và những rào cản xã hội, chính là điều Đức Giê-su liên tục đề xuất : "Hãy cho vay mà chẳng hề mong được đền trả… thì phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao... vì nếu anh em cho người ta vay mượn chỉ khi hy vọng đòi lại được, thì có gì là ân với nghĩa?" (Lc 6,34-35). Ông Si-mon Công Chính, một kinh sư Do-thái sống vào thời đầu Ki-tô giáo, từng nói : "Thế giới được xây dựng trên ba điều : Lời Thiên Chúa, việc cầu nguyện và những hành vi do tình yêu thúc đẩy." Hôm nay, Đức Giê-su đề ra cho chúng ta những trụ cột ấy của đời sống thiêng liêng, ân sủng Thiên Chúa và tình yêu con người, nhưng với một tính toàn diện và phổ quát tuyệt đối.
1Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa; họ để ý dò xét Người.
7Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên mới nói với họ dụ ngôn này : 8“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, 9và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng : ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói : ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
12Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng : “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc : vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
ĐIỀU KIỆN DỰ YẾN NƯỚC TRỜI
Hãy tưởng tượng một đám cưới Do-thái được tổ chức vào một buổi chiều muộn đầy nắng và gió, với số khách mời ấn tượng chen chúc quanh cái tán kết bằng hoa, biểu tượng của loan phòng. Bên dưới tán, trước mặt vị giáo sĩ Do-thái, chú rể đang đeo nhẫn vào ngón tay cô dâu, thốt lên công thức từ sách Talmud : "Nay với chiếc nhẫn này, em được trao hiến cho anh, theo luật Mô-sê và luật Ít-ra-en." Tiếp đến là nghi thức đọc và ký ketubah, văn kiện pháp lý đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ vợ chồng. Khắp sân, các bàn đang chờ đón khách mời cho bữa tiệc long trọng. Một số đã ngồi vào những vị trí ngon nhất, nhiều kẻ khác đang cố gắng chen giữa đám khách bao quanh đôi tân hôn để gần cô cậu hơn nữa, khi một ly rượu chát được rót ra sau bảy lời chúc tụng Thiên Chúa đã tạo nên sự kỳ diệu say đắm của tình yêu nhân loại. Với nghi thức rất bình dân và nhiều gợi ý này, đôi tân hôn được nhắc nhở rằng không ai -ngay cả các cặp tình nhân hạnh phúc nhất- có thể có được niềm vui trọn vẹn, bền vững, chẳng bị cái gì làm rạn nứt, thành thử họ luôn phải nỗ lực vun đắp, giữ gìn.
1- Ứng xử khiêm tốn
Từ khung cảnh đông đúc này, sự suy nghĩ hướng về đoạn văn mà phụng vụ Chúa nhật mang đến cho chúng ta hôm nay. Đức Giê-su cũng từng quan sát với một chút mỉa mai những kẻ dự tiệc (loại tiệc Người đã nhiều phen được mời), tất cả đều cố gắng chiếm những chỗ ngồi tốt nhất. Và như thường lệ, Người lấy cảm hứng từ những nỗi khổ to nhỏ, những tính hạnh tốt xấu và những cử chỉ thường nhật để xây dựng sứ điệp của mình.
Thoạt nhìn, ta tưởng đây là một bài học luân lý về phép lịch sự : chớ kiêu ngạo, hãy khiêm tốn, hay tệ hơn là kiểu mách nước một mánh khóe ngõ hầu được nổi trong bàn tiệc. Không ! Chữ “dụ ngôn” nơi c. 7b và 2 động từ ở thể thụ động (hiểu ngầm Thiên Chúa là túc từ tác nhân) nơi c. 11 cho thấy Đức Giê-su muốn nói với chúng ta về Thiên Chúa và về Nước Trời xoay quanh chữ khiêm tốn, tự hạ : Thiên Chúa là Đấng như thế nào và đâu là điều kiện thiết yếu để được nhận vào Thiên quốc?
Trong thế giới hiện thời, tự hạ bị coi là một thái độ đáng khinh, xem như giảm giá trị. Trong ngôn ngữ thông dụng, lòng khiêm tốn bị gán cho một nghĩa gần như xấu xa. Đó là phục tùng, đào nhiệm, nhượng bộ, đầu hàng trước kẻ khác. Người nhường chỗ của mình có nguy cơ tỏ ra như một kẻ tội nghiệp, bị thiên hạ nghĩ rằng y không thể làm khác. Trước não trạng này, Đức Giê-su hôm nay bày tỏ một Vương quốc trái ngược với mọi vương quốc, một Thiên Chúa đối nghịch với vị TC mà chúng ta dễ dàng tưởng tượng. Vậy trước hết hãy chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong Đức Giê-su.
Đang khi Người có quyền “duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (Pl 2,6), Đức Giê-su đã chọn đặt mình vào chỗ rốt cùng. Trong cảnh rửa chân môn đệ, chúng ta đã thấy Thiên Chúa “áo ngoài cởi, khăn thắt lưng”, “quỳ dưới chân con người”, “rửa đôi chân nhơ bẩn của nhân loại”. Chúng ta đã thấy Thiên Chúa phục vụ mọi người, vì đó chính là hình ảnh trước của Thập giá. Sự cao cả đích thực của Thiên Chúa là đấy : “Giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27). Đức Giê-su đã không giả bộ chọn chỗ cuối. Người đã thực sự biến mình thành tôi tớ cho chúng ta.
Chọn việc phục vụ, hầu hạ, đó là bắt chước Thiên Chúa. Lý do khiến chúng ta được mời vượt quá phán đoán bất lợi của thế giới hiện đại về những kẻ “bé mọn, nghèo khổ, thấp hèn”, đó là vì Thiên Chúa như vậy. Người ta có quyền tự hỏi tại sao Đức Giê-su đã “đã chiếm lấy vị trí cuối cùng đến mức sẽ chẳng bao giờ có ai chiếm được nữa.” (Lm Huvelin). Vậy đâu là lý do biện minh cho những kiểu tự hạ của Đức Giêsu, tự hạ “cho đến chết và chết trên thập giá”?
Ý nghĩa của “chỗ rốt cùng” này phải tìm bên kia lý trí nhân loại : trong chính Hữu thể của Thiên Chúa ! “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha !” (Ga 14,9). Khi nao chúng ta mới hiểu được rằng Thiên Chúa là hành vi yêu thương thuần túy? sự hiến thân hoàn hảo? chẳng chút hạn chế? không tự khép mình? Thiên Chúa, đó là Ba Ngôi mà mỗi ngôi chẳng có gì riêng, ngoại trừ việc trọn vẹn sống cho hai ngôi còn lại. Và thập giá của Đức Giê-su chỉ thuần là sự hiển linh, việc mạc khải sang ngời và chói mắt của thực tại Ba Ngôi ấy. Thiên Chúa, đó là hành vi mến thương cao cả mà chúng ta gọi là tình yêu điên cuồng, nhưng tuyệt đối tự nhiên với Cha, như với Con, như với Thánh Thần. Thiên Chúa không làm gì khác ngoài việc hiến thân trọn vẹn, bằng cách chọn chỗ rốt hèn để nhường chỗ cao trổi cho kẻ khác. Ai biết yêu là gì thì hiểu điều đó. Ai không biết yêu, thì sẽ chẳng bao giờ hiểu. Ai làm đầy tớ, làm kẻ phục vụ rốt cùng, đó là người có tình yêu hơn cả.
Cũng trong dụ ngôn ngắn gọn về chỗ ngồi bàn tiệc này, Đức Giê-su đưa ra một quy tắc để được vào Vương quốc Thiên Chúa. Thói muốn ngoi lên, lòng kiêu căng và óc tự mãn đều là những trở ngại; trái lại, sự đơn sơ, khiêm nhường và tôn trọng công lý mới là những điều kiện lý tưởng để đi vào đó. Nguyên tắc cơ bản của bàn tiệc Nước Trời là : "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Nước Trời đòi hỏi con người phải từ bỏ mọi tham vọng tự cứu rỗi, dựa trên danh vị cá nhân của mình. Thật thế, cái giúp tôi có được một chỗ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa đâu phải là đức công chính của riêng tôi, mà trước hết và quan trọng nhất là ân sủng của Người. Thế nên, chính Người phán với tôi : "Xin mời ông bạn lên trên cho." Do đó, chúng ta có thể tự vấn bản thân bằng những lời thánh Phao-lô từng viết cho tín hữu Phi-líp-phê : "Đừng làm chỉ vì tranh chấp hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhượng mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho chính mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (2,3-4). Cũng chính thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma đã khuyên nhủ : "Hãy hiệp lòng hiệp ý với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn" (12:16).
2- Đãi kẻ khiêm hèn
Nhưng còn một quy tắc khác cho bàn tiệc Nước Thiên Chúa. Quy tắc này nằm trong phần hai của đoạn Tin Mừng hôm nay. Cùng một cấu trúc như trên, phần này nói đến việc chọn lựa các khách tiệc. Đức Giê-su nhắc nhở chủ nhà rằng việc mời và giúp thân nhân bè bạn là một dấu chỉ của tình yêu dễ dãi và tự phát thôi. Việc chớ tìm sự “có qua có lại” khiến ta nhớ đến giáo huấn ở 6,32-34. Nó cũng đi từ một nhận xét : giới tinh hoa xã hội bấy giờ gồm các kinh sư và Pha-ri-sêu (Biệt phái) thường chỉ mời nhau dự tiệc. Ngôn ngữ khôn ngoan của Đức Giê-su chẳng phải là không song song với đoạn văn chương A-ram này : “Hãy đón vào nhà ngươi kẻ thấp kém hơn ngươi và kẻ chẳng giàu bằng ngươi; nếu y ra đi mà không trả lại cho ngươi, thì Thiên Chúa sẽ trả” (Khôn ngoan Ahikar 3,31). Nhưng ý của Đức Giê-su triệt để hơn nhiều : chớ mời bạn bè có các phương tiện (vật chất, tài chánh, văn hóa hay tinh thần) để trả lại cho anh tương xứng, mà hãy hướng lòng về những kẻ bị xã hội khai trừ, loại bỏ. Bốn hạng xấu số nêu tên đều thiếu khả năng hay tiền bạc; họ chẳng có chỗ giữa giới phú quý giàu sang vị vọng. Dựa vào Lv 21,17-21 và 2Sm 5,8, một bản văn phái Essenoi tại Qumrân xác định, cách khá đặc trưng, rằng những kẻ tật nguyền như thế đều bị loại khỏi phụng vụ của cộng đoàn các kỳ mục. Một chỗ sẽ dành cho họ trong dụ ngôn tiếp (14,16-24) : các hạng xã hội nêu tên ở 14,13 sẽ được tìm thấy ở 14,21.
Và lúc đó nổi lên một mối phúc mang tính cách nghịch lý trong phần đầu (c. 14a Họ không có gì đáp lễ) : hoàn cảnh khó chịu về phương diện nhân loại là nguyên nhân khiến người ta được tuyên bố “có phúc”. Một đòi hỏi tương tự cũng sẽ được đưa ra từ 14,25tt. Tuy nhiên mối phúc vẫn kết luận bằng một sự “có qua có lại” khá bất ngờ : vì những kẻ được mời thiếu mọi phương tiện, nên chính Thiên Chúa sẽ là con nợ; Người sẽ thanh toán nợ khi phục sinh những kẻ lành. Sự báo ứng duy nhất phải tìm kiếm, đó là sự báo ứng mà Thiên Chúa sẽ là tác giả trong ngày Chung thẩm.
Thành ra phải nhớ : tín hữu đích thực phải mời những kẻ "nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" để thật sự "có phúc", tức là được tham dự vào niềm vui Nước Trời. Một tình yêu vị tha, tự do, toàn diện, quảng đại, sáng tạo, thực sự mang tính cách mạng, xóa bỏ những luật lệ kinh tế cứng nhắc và những rào cản xã hội, chính là điều Đức Giê-su liên tục đề xuất : "Hãy cho vay mà chẳng hề mong được đền trả… thì phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao... vì nếu anh em cho người ta vay mượn chỉ khi hy vọng đòi lại được, thì có gì là ân với nghĩa?" (Lc 6,34-35). Ông Si-mon Công Chính, một kinh sư Do-thái sống vào thời đầu Ki-tô giáo, từng nói : "Thế giới được xây dựng trên ba điều : Lời Thiên Chúa, việc cầu nguyện và những hành vi do tình yêu thúc đẩy." Hôm nay, Đức Giê-su đề ra cho chúng ta những trụ cột ấy của đời sống thiêng liêng, ân sủng Thiên Chúa và tình yêu con người, nhưng với một tính toàn diện và phổ quát tuyệt đối.