Đức Thương Phụ Shevchuk của Giáo hội Chính Thống Ukraine chia sẻ: Hy vọng lớn lao rằng chiến tranh ở Ukraine sẽ kết thúc

Vào ngày lễ kỷ niệm Ngày Độc lập của Ukraine, sau dòng dã cả ba năm rưỡi cuộc xâm lược của Nga, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã chia sẻ về những đau khổ và hy vọng của người dân Ukraine. Người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với tình đoàn kết quốc tế và tái khẳng định niềm tin tuyệt đối vào Chúa.

(Tin Vatican - Svitlana Dukhovych)

Hôm nay (25/8/2025), Ukraine kỷ niệm 34 năm ngày độc lập khỏi Liên Xô. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1991, Quốc hội Ukraine đã tuyên bố độc lập, sau đó được xác nhận bởi một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 1 tháng 12, với hơn 90% phiếu thuận. Bước ngoặt này cũng đã định hình lại vai trò của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp, vốn bị buộc phải hoạt động bí mật cho đến năm 1989. Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, Tổng Giám mục Kyiv-Halych, đã giải thích như vậy trong một cuộc phỏng vấn với đài Vatican. Dưới đây là toàn văn bài phỏng vấn:

Thưa Đức Thượng Phụ, vai trò của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp đã thay đổi như thế nào sau khi giành độc lập vào năm 1991?

Ngay cả trong những năm tháng hoạt động bí mật dưới sự cai trị của Liên Xô - và trước đó, khi chưa có nhà nước Ukraine thực sự tồn tại - Giáo hội vẫn là cấu trúc xã hội duy nhất đại diện cho nhân dân. Điều này đúng trong thời kỳ Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, thời kỳ Đế quốc Áo và Nga, và thời Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan. Giáo hội thường là tiếng nói duy nhất bảo vệ người dân Ukraine, đảm nhận những vai trò thường được dành cho nhà nước trong việc bảo vệ quyền công dân. Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp luôn ủng hộ khát vọng của người dân về một nhà nước độc lập của họ, đặc biệt là để những trách nhiệm công dân mà họ đã gánh vác từ lâu cuối cùng có thể được giao phó cho một chính phủ thực thụ.

Giáo hội đã đóng một vai trò quyết định trong thời kỳ Liên Xô sụp đổ và sự ra đời của một nước Ukraine độc lập. Giáo hội tiếp tục hiện thân cho giáo huấn xã hội Công Giáo: bảo vệ phẩm giá con người, thúc đẩy trách nhiệm, phục vụ lợi ích chung và nuôi dưỡng bản sắc dân tộc. Trong những năm 1990, Giáo hội Ukraine đóng vai trò then chốt trong việc chuyển đổi xã hội từ hậu Xô Viết và hậu thuộc địa sang dân chủ. Giáo hội thực sự đóng vai trò là Mater et Magistra - người mẹ, người thầy và người dẫn đường cho người dân chúng.

Ngày Độc lập năm nay cũng đánh dấu ba năm rưỡi chiến tranh toàn diện. Kinh nghiệm này đã định hình Giáo hội như thế nào?

Vẫn còn nhiều bài học cần được tiếp thu, nhưng một số bài học đã rõ ràng. Thứ nhất, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện của một xã hội dân sự và chính trị mới. Người tiền nhiệm của tôi, Đức Thương Phụ Lubomyr Husar, đã nói rằng sự chia rẽ ở Ukraine không bao giờ liên quan đến ngôn ngữ, sắc tộc hay giáo phái - mà là giữa những người yêu mến Ukraine và những người không yêu mến. Chiến tranh đã làm cho điều này trở nên rõ ràng.

Một bước phát triển quan trọng khác là bản sắc bao dung của Ukraine. Ngày nay, việc là người Ukraine không chỉ liên quan đến sắc tộc, văn hóa hay ngôn ngữ, mà còn liên quan đến việc bảo vệ một Ukraine độc lập. Người Do Thái, người Hồi giáo thuộc nhiều nguồn gốc, người Nga, người Ba Lan, người Hungary, người Hy Lạp - tất cả những người sống ở đây và bảo vệ đất nước đều là một phần của bản sắc Ukraine này. Không ai nói, và sẽ không bao giờ nói, "Ukraine chỉ dành cho người Ukraine". Không ai đấu tranh cho quyền của các nhóm thiểu số - họ tự nhiên được tôn trọng.

Tính bao dung này được phản ánh trong công tác nhân đạo và xã hội của các Giáo hội: viện trợ được cung cấp cho tất cả mọi người, mà không cần hỏi ai thuộc Giáo hội hay quốc gia nào. Sự đoàn kết như vậy, bắt nguồn từ bản sắc Kitô giáo, giờ đây lan tỏa đến tất cả mọi người và là bí quyết cho sức bền bỉ của Ukraine. Lịch sử cho thấy các dân tộc đoàn kết với nhau trong những thử thách chung, và cuộc chiến này chính là một thử thách như vậy. Tên lửa Nga không phân biệt Chính thống giáo hay Công Giáo, Kitô giáo, Hồi giáo hay Do Thái giáo. Tất cả đều bị tổn thương như nhau, tất cả đều cần được chữa lành. Trải qua bi kịch, Ukraine đang ngày càng đoàn kết hơn, và Ngày Độc lập giờ đây được coi là một lễ kỷ niệm sự thống nhất dân tộc và một dự án chung: xây dựng lại một Ukraine vững mạnh hơn, rõ ràng hơn, thực sự là một nước Ukraine châu Âu.

Đức Thương Phụ nghĩ gì về những nỗ lực quốc tế gần đây nhằm chấm dứt chiến tranh?

Tôi đồng tình với suy nghĩ của người dân: có hy vọng lớn lao rằng những nỗ lực quốc tế này, ngay cả ở cấp độ cao nhất, có thể chấm dứt cuộc chiến mù quáng và vô nghĩa này. Và "vô nghĩa" chính là từ đúng nhất. Đối với người Ukraine, việc tự vệ là vấn đề sống còn. Nhưng bên cạnh phòng thủ quân sự, các nỗ lực ngoại giao và kinh tế đã củng cố khả năng kháng cự của chúng tôi.

Người dân thường nhìn thấy một điều chưa từng có: kể từ khi chiến tranh bắt đầu, chưa bao giờ có áp lực quốc tế mạnh mẽ như vậy đối với Nga để chấm dứt việc giết hại người Ukraine. Tuần trước, tất cả các nhà lãnh đạo châu Âu đã cùng Tổng thống của chúng ta quy tụ tại Washington ủng hộ việc đảm bảo an ninh cho Ukraine. Điều này cho thấy họ coi Ukraine là một phần của châu Âu về mặt văn hóa và kinh tế. Trong tương lai, Ukraine sẽ đảm bảo an ninh cho biên giới châu Âu. Ukraine đã là một phần của thực tại châu Âu, và hôm nay tương lai của một châu Âu thống nhất đang được định đoạt tại đây.

Đây là Năm Thánh Hy Vọng. Giáo Hội mang đến hy vọng gì trong thời điểm đen tối này?

Bên cạnh những nỗ lực của con người, chúng ta, những người Kitô hữu, luôn thêm vào điều cốt lõi trong bản sắc của mình: cầu nguyện và tin tưởng vào Chúa. Chúng ta không chỉ dựa vào sức mạnh con người. Chúng ta thấy rằng quyền năng của Chúa đang thể hiện nơi dân tộc bị tổn thương này - đó vừa là nền tảng vừa là đối tượng của hy vọng Kitô giáo. Chúng ta hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng vào Ngài sẽ không bao giờ thất vọng. Hy vọng này mạnh mẽ hơn bất kỳ hiệp ước hay thỏa thuận nào. Đó là lý do tại sao Ukraine cầu nguyện.

Đức tin đổi mới sức mạnh của chúng ta, trên hết là khả năng làm điều thiện. Như Husar đã nói: khi chúng ta làm điều thiện, chúng ta trở nên mạnh mẽ. Bất cứ ai muốn thử thách sức mạnh của mình ngày hôm nay đều có thể làm như vậy bằng cách phục vụ những người đang gặp khó khăn, người dân của họ, quốc gia của họ. Làm điều thiện giúp vượt qua mệt mỏi, phục hồi sức mạnh nội tâm - con người và Kitô giáo - mà chúng ta mang trong mình. Đây là lý do tại sao, vượt lên trên mọi nỗ lực của con người, người Ukraine thêm vào hy vọng Kitô giáo, một hy vọng không bao giờ thất bại.

>Đức Thương Phụ có muốn thêm điều gì khác không?

Trước hết, tôi muốn cảm ơn người dân châu Âu, những người ngày càng nhận thức rõ rằng những gì đang diễn ra ở Ukraine ngày nay ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội, Giáo hội và các dự án của họ vì một châu Âu hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Tôi cảm ơn các Kitô hữu ở châu Âu và trên toàn thế giới vì tình đoàn kết to lớn mà chúng tôi cảm nhận được từ các Giáo hội địa phương trên khắp thế giới. Gần đây, chúng tôi đã nhận được thư từ Hội đồng Giám mục Brazil và từ các Giáo hội ngoài Công Giáo, đặc biệt là Chính thống giáo và Tin lành.

Tôi cảm ơn tất cả các Kitô hữu, và tất cả những người nam nữ thiện chí, những người đã thể hiện sự đồng cảm của mình một cách cụ thể và thiết thực - thông qua các dự án nhân đạo cho Ukraine và, theo thời gian, cho việc tái thiết đất nước chúng tôi. Trên hết, chúng tôi biết ơn những lời cầu nguyện, bởi vì lời cầu nguyện là một sức mạnh to lớn giúp chúng tôi sống sót và nâng đỡ chúng tôi trong những hoàn cảnh bi đát này.