1. Biểu tượng mạnh mẽ: Vatican công bố chân dung và chữ ký chính thức của Giáo hoàng Lêô XIV
Tòa thánh đã công bố chân dung và chữ ký chính thức của Giáo hoàng Lêô XIV vào thứ Bảy, cho thấy vị giáo hoàng người Mỹ này chấp nhận các yếu tố giáo hoàng truyền thống chỉ hai ngày sau cuộc bầu cử lịch sử của ngài.
Bức chân dung chính thức cho thấy vị giáo hoàng 69 tuổi mặc áo choàng ngắn mozzetta đỏ, khăn choàng thêu, áo ren trắng và thánh giá đeo ngực màu vàng. Đó là các trang phục giáo hoàng truyền thống tạo nên sự tương phản về mặt thị giác với phong cách đơn giản hơn mà người tiền nhiệm ngài ưa chuộng.
Vatican Media đã công bố bức chân dung cùng với chữ ký cá nhân của giáo hoàng, bao gồm ký hiệu “PP” — một từ viết tắt theo truyền thống được sử dụng trong chữ ký của giáo hoàng, có nghĩa là “Pastor Pastorum” (“Người chăn chiên”). Đức Thánh Cha Phanxicô đã rời khỏi quy ước này, chỉ ký tên đơn giản là “Franciscus”.
Sự trở lại với các yếu tố truyền thống này đi kèm với huy hiệu giáo hoàng của Đức Lêô XIV. Thiết kế huy hiệu có hình hoa bách hợp tiếng Pháp là fleur-de-lis /flơ đờ li/ trên nền xanh, tượng trưng cho Đức Trinh Nữ Maria, trong khi bên phải hiển thị Trái tim thiêng liêng của Chúa Giêsu nằm trên một cuốn sách trên nền mầu kem.
Biểu tượng này dựa trên biểu tượng truyền thống của Dòng Augustinô.
Hoa bách hợp có ý nghĩa đặc biệt trong nghệ thuật biểu tượng Công Giáo vì là biểu tượng của sự trong trắng và Đức Mẹ Đồng Trinh.
Thiết kế hoa bách hợp ba cánh cũng được kết nối với Chúa Ba Ngôi. Nó được đặc trưng nổi bật trong huy hiệu của Pháp, có thể mang ý nghĩa cá nhân đối với Đức Giáo Hoàng vì ngài có tổ tiên là người Pháp thông qua dòng dõi của cha mình.
Bên dưới tấm khiên là một cuộn giấy ghi khẩu hiệu giám mục của Đức Giáo Hoàng: “In illo uno unum” (“Trong cùng một Chúa Kitô, chúng ta là một”), một cụm từ được trích từ lời chú giải của Thánh Augustinô về Thánh Vịnh 127. Khẩu hiệu này phản ánh nguồn gốc dòng Augustininô của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và cam kết của ngài đối với sự hiệp nhất trong Giáo hội.
Những buổi trình bày sâu sắc về biểu tượng của giáo hoàng — chân dung, chữ ký và huy hiệu — theo truyền thống diễn ra vào những ngày đầu của một giáo hoàng mới và cung cấp cái nhìn sâu sắc về các ưu tiên thần học và phong cách mục vụ mà giáo hoàng mới muốn nhấn mạnh.
Đức Thánh Cha Lêô XIV, tên khai sinh là Robert Francis Prevost tại Chicago, đã làm nên lịch sử vào ngày 8 tháng 5 khi trở thành giáo hoàng đầu tiên sinh ra tại Hoa Kỳ.
2. Diễn từ của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV với các Hồng Y tại hội trường Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
Sáng Thứ Bẩy, 10 Tháng Năm, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã có cuộc hội thảo với các Hồng Y tại hội trường Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới. Cuộc họp không được phát sóng trực tiếp hoặc mở cửa cho báo chí, kéo dài tổng cộng khoảng hai giờ, từ 10 giờ sáng đến trưa.
Bài phát biểu của ngài được bắt đầu bằng việc đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng bằng tiếng Latinh. Tiếp theo là thời gian thảo luận trong đó Đức Lêô XIV bày tỏ sự sẵn sàng của mình cho “lời khuyên, gợi ý, đề xuất, những điều rất cụ thể”, theo yêu cầu của các Hồng Y trong giai đoạn chuẩn bị của Cơ Mật Viện.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy toàn văn diễn từ của ngài.
Xin chân thành cảm ơn các Đức Hồng Y. Trước khi ngồi vào chỗ, chúng ta hãy bắt đầu bằng lời cầu nguyện, xin Chúa tiếp tục đồng hành với Hồng Y Đoàn này, và trên hết là toàn thể Giáo hội với tinh thần này, với lòng nhiệt thành, nhưng cũng với đức tin sâu sắc. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện bằng tiếng Latinh.
Lạy Cha chúng con… Kính mừng Maria…
Trong phần đầu của cuộc họp này, sẽ có một cuộc nói chuyện ngắn với một số suy tư mà tôi muốn chia sẻ với anh em. Nhưng sau đó sẽ có phần thứ hai, giống như cơ hội mà nhiều người trong số anh em đã yêu cầu: đó là một dạng đối thoại với Hồng Y đoàn để lắng nghe những lời khuyên, gợi ý, đề xuất, những điều cụ thể, đã được thảo luận trong những ngày dẫn đến Cơ Mật Viện.
Thưa các Hồng Y,
Tôi chào tất cả anh em với lòng biết ơn vì cuộc gặp gỡ này và những ngày trước đó. Những ngày buồn vì mất Đức Thánh Cha Phanxicô và đòi hỏi vì những trách nhiệm mà chúng ta cùng nhau đối mặt, nhưng đồng thời, theo lời hứa mà chính Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta, những ngày tràn đầy ân sủng và an ủi trong Chúa Thánh Thần (x. Ga 14:25-27).
Các Hồng Y thân mến, anh em là những cộng sự gần gũi nhất của Đức Giáo Hoàng. Điều này đã chứng minh là một niềm an ủi lớn đối với tôi khi chấp nhận một ách rõ ràng vượt xa khả năng hạn chế của riêng tôi, như nó sẽ là đối với bất kỳ ai trong chúng ta. Sự hiện diện của anh em nhắc nhở tôi rằng Chúa, Đấng đã giao phó cho tôi sứ mệnh này, sẽ không để tôi đơn độc trong việc gánh vác trách nhiệm này. Tôi biết, trước hết, rằng tôi luôn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của Người, sự giúp đỡ của Chúa, và thông qua ân sủng và sự quan phòng của Người, vào sự gần gũi của anh em và của rất nhiều anh chị em của chúng ta trên khắp thế giới, những người tin vào Chúa, yêu mến Giáo hội và hỗ trợ Vị Đại diện của Chúa Kitô bằng lời cầu nguyện và việc làm tốt của họ.
Tôi xin cảm ơn Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng Y Đoàn – người xứng đáng được hoan nghênh, ít nhất là một lần, nếu không muốn nói là nhiều hơn – người mà sự khôn ngoan, thành quả của một cuộc đời dài và nhiều năm phục vụ trung thành cho Tòa thánh, đã giúp chúng ta rất nhiều trong thời gian này. Tôi xin cảm ơn Đức Hồng Y Nhiếp chính của Giáo Hội Công Giáo Rôma, Đức Hồng Y Kevin Joseph Farrell – tôi tin rằng ngài hiện diện hôm nay – tôi cám ơn ngài vì công việc quan trọng và đầy thử thách mà ngài đã thực hiện trong suốt thời kỳ Tòa thánh trống ngôi Giáo Hoàng và vì việc triệu tập Cơ Mật Viện Hồng Y. Tôi cũng xin gửi lời chia buồn đến các Hồng Y anh em, những người vì lý do sức khỏe đã không thể có mặt, và tôi cùng anh em ôm chặt các ngài trong sự hiệp thông của tình cảm và lời cầu nguyện.
Vào lúc này, buồn vui lẫn lộn, được Chúa quan phòng tắm gội trong ánh sáng Phục Sinh, tôi muốn tất cả chúng ta nhìn sự ra đi của Đức Thánh Cha Phanxicô yêu dấu và Cơ Mật Viện Hồng Y như một biến cố vượt qua, một chặng đường trong cuộc xuất hành dài mà qua đó Chúa tiếp tục hướng dẫn chúng ta đến sự viên mãn của cuộc sống. Trong viễn tượng này, chúng ta trao phó cho “Cha nhân từ và Chúa của mọi sự an ủi” (2 Cr 1:3), linh hồn của Đức Giáo Hoàng quá cố và cả tương lai của Giáo hội.
Bắt đầu từ Thánh Phêrô cho đến chính tôi, Người kế vị không xứng đáng của ngài, Đức Giáo Hoàng đã là một người hầu khiêm nhường của Thiên Chúa và của anh chị em mình, và không gì hơn thế nữa. Điều này đã được thấy rõ trong tấm gương của rất nhiều Vị Tiền Nhiệm của tôi, và gần đây nhất là của chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô, với tấm gương tận tụy phục vụ và sống giản dị, phó thác cho Thiên Chúa trong suốt sứ vụ của mình và sự tin tưởng thanh thản của ngài vào lúc ngài trở về nhà Cha. Chúng ta hãy tiếp tục di sản quý giá này và tiếp tục cuộc hành trình, được truyền cảm hứng từ cùng một niềm hy vọng nảy sinh từ đức tin.
Chính Chúa Phục Sinh, hiện diện giữa chúng ta, là Đấng bảo vệ và hướng dẫn Giáo Hội, và tiếp tục đổ đầy hy vọng cho Giáo Hội qua tình yêu “được đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta” (Rm 5:5). Chúng ta phải ngoan ngoãn lắng nghe tiếng nói của Người và là những thừa tác viên trung thành của kế hoạch cứu độ của Người, luôn ghi nhớ rằng Thiên Chúa thích truyền đạt chính Người, không phải trong tiếng sấm rền và động đất, mà trong “tiếng thì thầm của làn gió nhẹ” (1 V 19:12), hoặc, như một số người dịch, trong “âm thanh của sự im lặng tuyệt đối”. Đây chính là cuộc gặp gỡ thiết yếu và quan trọng mà chúng ta phải hướng dẫn và đồng hành cùng toàn thể Dân thánh của Thiên Chúa được giao phó cho chúng ta chăm sóc.
Trong những ngày này, chúng ta đã có thể thấy vẻ đẹp và cảm nhận được sức mạnh của cộng đồng bao la này, với tình cảm và lòng sùng kính như vậy, đã chào đón và thương tiếc Người chăn chiên của mình, đồng hành với Người bằng đức tin và lời cầu nguyện vào thời điểm Người gặp gỡ Chúa. Chúng ta đã thấy sự vĩ đại thực sự của Giáo hội, đang sống động trong sự đa dạng phong phú của các thành viên của mình trong sự hiệp nhất với Đấng là Đầu duy nhất của thân thể, Chúa Kitô, “người chăn chiên và người bảo vệ” (1 Phêrô 2:25), của tâm hồn chúng ta. Giáo hội là lòng mẹ mà chúng ta được sinh ra và đồng thời là đàn chiên (x. Ga 21:15-17), là cánh đồng (x. Mc 4:1-20) được giao phó cho chúng ta để bảo vệ và vun trồng, nuôi dưỡng bằng các bí tích cứu độ và làm cho sinh hoa trái bằng cách gieo hạt giống Lời Chúa, để, khi kiên định trong sự đồng tâm một lòng một ý và nhiệt thành trong sứ vụ, Giáo hội có thể tiến lên, giống như những người Israel trong sa mạc, dưới bóng mây và dưới ánh sáng của ngọn lửa Thiên Chúa (x. Xh 13:21).
Về vấn đề này, tôi muốn chúng ta cùng nhau đổi mới cam kết hoàn toàn của chúng ta đối với con đường mà Giáo hội hoàn vũ đã đi qua trong nhiều thập niên sau Công đồng Vatican II. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khéo léo và cụ thể trình bày điều đó trong Tông huấn Evangelii Gaudium, trong đó tôi muốn nhấn mạnh một số điểm cơ bản: đó là sự trở lại với quyền tối thượng của Chúa Kitô trong việc loan báo (x. Số 11); sự hoán cải truyền giáo của toàn thể cộng đồng Kitô giáo (x. Số 9); sự phát triển trong tính đồng đoàn và tính đồng nghị (x. Số 33); sự chú ý đến cảm thức đức tin (x. Các số 119-120), đặc biệt là trong các hình thức chân thực và bao gồm nhất của nó, chẳng hạn như lòng đạo đức bình dân (x. Số 123); sự chăm sóc yêu thương đối với những người bé nhỏ nhất và bị từ chối (x. Số 53); đối thoại can đảm và tin tưởng với thế giới đương đại trong các thành phần và thực tại khác nhau của nó (x. Số 84; Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 1-2).
Đây là những nguyên tắc truyền giáo luôn luôn truyền cảm hứng và hướng dẫn cuộc sống và hoạt động của Gia đình Thiên Chúa. Trong những giá trị này, khuôn mặt thương xót của Chúa Cha đã được mặc khải và tiếp tục được mặc khải trong Người Con nhập thể của Người, niềm hy vọng cuối cùng của tất cả những ai chân thành tìm kiếm chân lý, công lý, hòa bình và tình huynh đệ (x. Bênêđíctô XVI, Spe Salvi, 2; Phanxicô, Spes Non Confundit, 3).
Cảm thấy mình được kêu gọi tiếp tục con đường này, tôi đã chọn lấy tên là Lêô XIV. Có nhiều lý do khác nhau cho điều này, nhưng chủ yếu là vì Đức Giáo Hoàng Leo XIII trong Thông điệp lịch sử Rerum Novarum (hay Tân Sự) đã đề cập đến vấn đề xã hội trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lớn đầu tiên. Trong thời đại của chúng ta, Giáo hội cung cấp cho mọi người kho tàng giáo huấn xã hội của mình để đáp lại một cuộc cách mạng công nghiệp khác và những phát triển trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo đặt ra những thách thức mới cho việc bảo vệ phẩm giá con người, công lý và lao động.
Anh em thân mến, tôi muốn kết thúc phần đầu tiên của cuộc họp bằng cách nêu lên hy vọng của riêng tôi – và cũng đề xuất với anh em – mà Thánh Phaolô Đệ Lục đã bày tỏ khi nhậm chức Sứ vụ Phêrô của ngài năm 1963: “Nguyện xin ngọn lửa đức tin và tình yêu vĩ đại bùng cháy trong tất cả những người nam nữ thiện chí lan tỏa khắp thế giới. Nguyện xin ngọn lửa ấy soi sáng con đường hợp tác lẫn nhau và ban phúc lành dồi dào cho nhân loại, bây giờ và mãi mãi, với chính sức mạnh của Thiên Chúa, mà nếu không có sự trợ giúp của Người, không có gì là có giá trị, không có gì là thánh thiện” (Sứ điệp Qui Fausto Die gửi đến toàn thể gia đình nhân loại, ngày 22 tháng 6 năm 1963).
Mong rằng đây cũng là những tình cảm của chúng ta, được chuyển thành lời cầu nguyện và cam kết, với sự giúp đỡ của Chúa. Cảm ơn!
Source:Vatican News
3. Đức Hồng Y Filoni: Tông hiệu của Đức Lêô XIV chỉ ra 'tầm nhìn rõ ràng về Giáo hội'
Đức Hồng Y người Ý Fernando Filoni cho biết danh hiệu giáo hoàng của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phản ánh ý định lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo bằng một “tầm nhìn rõ ràng” giữa một thế giới đầy biến động.
Vị giám mục người Ý, một trong những thành viên bỏ phiếu của Cơ Mật Viện bầu Đức Giáo Hoàng Lêô XIV vào chức giáo hoàng tuần này, nói với EWTN tại Rôma rằng các Hồng Y “rất ngạc nhiên về cái tên” do vị giáo hoàng mới chọn.
Nhưng “đó là một điều ngạc nhiên tuyệt vời,” Đức Hồng Y nói.
Đức Hồng Y Fernando Filoni, cựu tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết:
“Tôi hỏi ngài tại sao chọn tên hiệu này, ngài là một tu sĩ dòng Augustinô....Ngài nói với tôi, 'Vào thời điểm này, chúng ta cần một người có tầm nhìn rõ ràng về Giáo hội.'“
Đức Hồng Y Filoni đã nhắc đến Đức Giáo Hoàng Leo XIII, người đã lãnh đạo Giáo hội từ năm 1878 đến năm 1903, trong thời kỳ có nhiều biến động và thay đổi lớn trên toàn cầu.
Ngài cho biết: “Đó là thời điểm xã hội đang tự tổ chức lại, đặc biệt là các khía cạnh xã hội và công việc”.
Đức Lêô XIII đã nỗ lực nêu rõ lập trường xã hội của Giáo Hội Công Giáo trong bối cảnh những chuyển đổi đó, đặc biệt là trong thông điệp “Rerum novarum” hay “Tân Sự”, trong đó có một phần đề cập đến điều kiện làm việc tồi tệ và khẳng định quyền của người lao động.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã được ca ngợi trong nhiều thập niên là “Giáo hoàng Xã hội” vì những nỗ lực đó. Đức Hồng Y Filoni cũng chỉ ra rằng Đức Giáo Hoàng Lêô Cả — người phục vụ vào thế kỷ thứ 5 — được nhớ đến với cái tên “Leone Magno” hay “Lêô Cả”, và trong số những thành tựu của mình, ngài đã làm sáng tỏ các giáo lý liên quan đến bản chất con người và thần thánh của Chúa Kitô.
“Tôi nghĩ Đức Lêô XIV đã có rất nhiều khía cạnh này trong trái tim mình khi chọn danh hiệu này và chúng ta sẽ thấy điều đó.”
Đức Hồng Y cũng lưu ý thêm về bài phát biểu đầu tiên của tân Giáo hoàng với thế giới, mở đầu bằng câu: “Bình an cho tất cả anh chị em.”
Đức Hồng Y Filoni cho biết tầm quan trọng của phước lành này không thể bị bỏ qua, đặc biệt là trong bối cảnh bất ổn đang diễn ra ở Thánh Địa.
“Tôi chắc chắn rằng nó sẽ là một phần thiết yếu trong triều Giáo Hoàng của ngài, nhưng không phải theo nghĩa khía cạnh xã hội học hay chính trị”, ông nói.
“Nếu không có hòa bình của Chúa, con người sẽ không bao giờ tạo ra hòa bình,” ngài nói. “Họ sẽ lập một thỏa thuận và sau một thời gian, nó sẽ bị bỏ rơi hoàn toàn. Vì vậy, ngài đặt Chúa Giêsu, Chúa Phục sinh, vào trung tâm của hòa bình.”
Source:Catholic News Agency
4. Nhật ký trừ tà số 342: Liệu ma quỷ có thể làm sai lệch Cơ Mật Viện không?
Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #342: Can Demons Pervert the Conclave?”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 342: Liệu ma quỷ có thể làm sai lệch Cơ Mật Viện không?”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Satan chắc chắn đã tập hợp lực lượng mạnh nhất của mình và cố gắng làm sai lệch Cơ Mật Viện. Đây là thời điểm then chốt đối với Giáo hội và hắn đã cố gắng gieo rắc xung đột, kiêu ngạo về mặt tinh thần, bất tuân Chúa, ngờ vực, ham quyền lực, tức giận, cố chấp, v.v. Chúng ta có nên lo lắng không?
Chắc chắn các Hồng Y cử tri đã thảo luận về các ứng cử viên tiềm năng và tôi biết rằng một số Hồng Y sẽ tích cực ủng hộ cho sự lựa chọn cá nhân của các ngài. Có những yếu tố rất con người trong quá trình này. Những người hoài nghi cho rằng Giáo hội chỉ toàn là chính trị và đầy rẫy những động lực giành quyền lực. Liệu Chúa Thánh Thần có tác động gì không?
Trong một cuộc trừ tà gần đây, tôi đã nhìn thẳng vào những con quỷ đang biểu hiện và đọc thuộc lòng những câu trong Nghi lễ: “Quia quanto tardius exis, tanto magis tibi supplicium crescit” (“Càng trì hoãn, hình phạt của bạn càng nặng nề.”) Vào ngày phán xét cuối cùng, Satan và những kẻ theo hắn sẽ bị phán xét vì sự bất tuân ban đầu của chúng, hơn thế nữa, chúng còn bị phán xét vì mọi hành động xấu xa trong suốt các thời đại, bao gồm cả việc tra tấn những con người bị quỷ ám. Con quỷ trả lời, “Ta không quan tâm!” Sau đó, tôi nói, “Các ngươi sợ hãi sự phán xét cuối cùng, và các ngươi sợ là phải!” Những con quỷ không nói gì. Tôi nói thêm, “Thời gian không còn nhiều nữa.”
Cái ác, theo bản chất của nó, là tự hủy diệt. Như tôi nhắc nhở bọn quỷ, mọi thứ chúng làm đều dẫn đến sự hủy diệt của chính chúng và sự phát triển của Vương quốc Chúa. Suy nghĩ này khiến Satan và bọn quỷ của hắn tức giận. Bất kể hắn làm gì, hắn đã và sẽ bị đánh bại.
Ngược lại, Thiên Chúa nắm bắt mọi khoảnh khắc và biến đổi chúng thành việc hoàn thành ý muốn của Người. Ngay cả hành động đê tiện nhất từng được thực hiện, tức là giết Con Thiên Chúa, đã được biến đổi thành khoảnh khắc cứu rỗi của chúng ta. Ngay khi Satan nghĩ rằng hắn đã “chiến thắng”, hắn đã phải chịu thất bại hoàn toàn.
Bất kể điều gì xảy ra tại Cơ Mật Viện, chúng ta, các Kitô hữu, phải có lòng tin hoàn toàn rằng Chúa sẽ không ngừng mở rộng Vương quốc của Người. Đồng thời, tôi biết một số Hồng Y tham dự và họ thực sự là những người tốt, đầy đức tin. Họ sẽ cầu nguyện và cố gắng hết sức để phân định xem Chúa Thánh Thần sẽ chọn ai làm giáo hoàng tiếp theo của chúng ta.
Tôi vừa gửi một email cho một vị Hồng Y hiện đang ở Rôma và đang chuẩn bị. Tôi viết: “Xin Chúa Thánh Thần ở cùng ngài... Tôi xin gửi lời cầu nguyện của tôi đến ngài.” Ngài trả lời ngay lập tức, “Hãy tiếp tục cầu nguyện!” Chúng ta cũng nên làm như vậy. Tôi khuyên bạn hãy đọc lời cầu nguyện sau đây:
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin đổ đầy tâm hồn các tín hữu của Chúa và thắp lên trong họ ngọn lửa tình yêu của Chúa. Xin Chúa sai Thánh Thần đến và xin Chúa đổi mới bộ mặt trái đất. Amen.”
Source:Catholic Exorcism
5. Trong cuộc phỏng vấn năm 2022, Đức Tân Giáo Hoàng đã lên án cuộc xâm lược 'đế quốc' của Nga vào Ukraine
Với thông báo Đức Hồng Y Robert Francis Prevost đã được chọn làm Đức Tân Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, người dân Ukraine đang tự hỏi việc bổ nhiệm bất ngờ vị giáo hoàng sinh ra ở Mỹ này sẽ có ý nghĩa gì đối với đất nước họ.
Cha Ihor Yatsiv, phát ngôn nhân của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, hiệp thông hoàn toàn với Tòa Thánh chỉ ra rằng những bình luận trước đây của vị Tân Giáo Hoàng, người đã lấy hiệu là Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, đã nhanh chóng xuất hiện để dư luận có thể tìm hiểu quan điểm của ngài về các vấn đề gây tranh cãi.
Cha Ihor Yatsiv chỉ ra rằng khi còn là Giám mục của Chiclayo ở Peru, Đức Cha Robert Prevost đã lên tiếng phản đối cuộc xâm lược liên tục của Nga chống lại Ukraine trong một cuộc phỏng vấn năm 2022.
Phát biểu với hãng tin Semanario Expresión của Peru, Đức Cha Prevost lên án cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine, mô tả đây là “một cuộc xâm lược thực sự, mang tính chất đế quốc, khi Nga tìm cách chinh phục lãnh thổ vì tham vọng quyền lực”.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV được các Hồng Y trong Cơ Mật Viện chọn vào ngày 8 tháng 5, sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô qua đời vào ngày 21 tháng 4 ở tuổi 88. Vào ngày 7 tháng 5, các Hồng Y đã chính thức khai mạc Cơ Mật Viện lịch sử tại Vatican để bầu ra nhà lãnh đạo tiếp theo của Giáo Hội Công Giáo.
Bằng cách nêu rõ tham vọng đế quốc của Nga ở Ukraine, những bình luận trước đây của Giáo hoàng được coi là sự thay đổi so với lập trường của người tiền nhiệm về cuộc chiến và có thể chỉ ra sự thay đổi tiềm tàng trong đường lối của Vatican.
Theo Cha Ihor Yatsiv, Đức Thánh Cha Phanxicô được coi rộng rãi là một nhà cải cách sẽ được người đời nhớ đến với lòng trắc ẩn. Tuy nhiên, phát ngôn nhân của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, ghi nhận rằng di sản của ngài ở Ukraine phức tạp hơn thế.
Trong suốt cuộc xâm lược toàn diện của Nga, nhiều người Ukraine coi tuyên bố của Đức Thánh Cha Phanxicô là không chỉ rõ trách nhiệm của Nga đối với cuộc chiến. Việc ngài mô tả người Ukraine và người Nga là “anh em” bị coi là lạc lõng một cách đau đớn giữa cuộc xâm lược tàn khốc của Mạc Tư Khoa. Theo Cha Ihor Yatsiv, việc Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô mô tả người Ukraine và người Nga là “anh em” gây đau đớn cho Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương và xã hội Ukraine nói chung. Ngài chỉ ra rằng, sau thảm họa diệt chủng Holodomor, là nạn đói do người Nga gây ra giết chết đến 5 triệu người Ukraine trong hai năm 1932 và 1933, việc mô tả người Ukraine và người Nga là “anh em” có thể gây ra một phản ứng tương tự như nói Đức Quốc Xã và người Do Thái là “anh em” thân thiết với nhau. Hơn thế nữa, trong trường hợp của Ukraine, nó còn gây ra lo lắng về sự phủ nhận Ukraine là một quốc gia độc lập và là một dân tộc khác biệt với người Nga.
Ngoài ra, trong khi Đức Thánh Cha Phanxicô liên tục kêu gọi hòa bình, ngài cũng không gọi Nga là kẻ xâm lược hoặc lên án đích danh Putin.
Cha Ihor Yatsiv cho rằng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV là vị Giáo Hoàng mang lại hy vọng cho đất nước Ukraine. Riêng đối với Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương Cha Ihor Yatsiv bày tỏ hy vọng rằng Đức Tân Giáo Hoàng sẽ sửa chữa một thực tế dai dẳng mà ngài gọi là một “bất công” đối với Giáo Hội Công Giáo Ukraine. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tổ chức 10 công nghị tấn phong 163 Hồng Y từ 76 quốc gia, trong đó có 25 quốc gia chưa từng có Hồng Y trong lịch sử. Đối với nhiều quan sát viên, một trong những vị xứng đáng được tấn phong Hồng Y, mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không tấn phong, có thể là vì e ngại những rắc rối với Chính Thống Giáo Nga, là Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, giáo chủ Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương. Vị tiền nhiệm của ngài là Đức Cha Liubomyr Huzar, đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Hồng Y vào ngày 21 Tháng Hai, 2001.
Cha Ihor Yatsiv hy vọng Đức Tân Giáo Hoàng sẽ sớm khắc phục bất công này.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy gần đây đã chúc mừng tân Giáo hoàng khi được bổ nhiệm.
Ông cho biết: “Ukraine đánh giá cao lập trường nhất quán của Tòa thánh trong việc duy trì luật pháp quốc tế, lên án hành động xâm lược quân sự của Liên bang Nga đối với Ukraine và bảo vệ quyền của thường dân vô tội”.
Tổng thống Zelenskiy bày tỏ hy vọng rằng “Với tư cách là nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ đóng vai trò quyết định trong việc định hình cách thức tổ chức Giáo Hội Công Giáo ứng phó với cuộc chiến tranh lớn nhất Âu Châu kể từ Thế chiến II.”
Source:Kyiv Independent
6. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Những Ấn Tượng Sơ Khởi Về Một Khoảng Khắc Giáo Hoàng Ban Đầu
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada, vừa có bài viết nhan đề “Pope Đức Lêô XIV: Initial Impressions on a Papal First”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Những Ấn Tượng Sơ Khởi Về Một Khoảng Khắc Giáo Hoàng Ban Đầu” đăng trên tờ National Catholic Register ngày 10 tháng Năm, 2025.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy
Đây là lần thứ ba liên tiếp các Hồng Y bầu ra một vị Tân Giáo Hoàng vào ngày thứ hai của Cơ Mật Viện, và các ngài đã mang đến một điểm đầu tiên quan trọng.
Đức Hồng Y Robert Francis Prevost hiện là Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, là người Mỹ và Peru đầu tiên nắm giữ Tòa thánh Phêrô.
Không có con đường thông thường nào để trở thành một vị Giáo Hoàng người Mỹ, nhưng có một con đường để trở thành một Hồng Y người Mỹ. Đức Hồng Y Prevost đã không đi theo con đường đó.
Sinh năm 1955, ngài lớn lên tại Dolton, Illinois, giáp ranh với South Side của Chicago. Tham dự các thánh lễ tại giáo xứ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và theo học tại trường học của giáo xứ ở địa phương, trước khi theo học trung học tại chủng viện dòng Augustinô ở Holland, Michigan, rời nhà khi mới 14 tuổi. Do đó, Đức Giáo Hoàng Lêô thuộc thế hệ cuối cùng mà điều đó là bình thường (các chủng viện giảng dạy chương trình trung học đó đã đóng cửa vào năm 1977). Gia nhập Dòng Thánh Augustinô, gọi tắt là OSA, ngài theo học đại học tại Villanova ở Philadelphia và lấy bằng sau đại học tại Angelicum ở Rôma.
Kinh nghiệm mục vụ chủ yếu của ngài là một linh mục truyền giáo và giám mục ở Peru. Được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền dòng Augustinô trên toàn thế giới hai lần, ngài đã phục vụ hai nhiệm kỳ sáu năm, từ năm 2001 đến năm 2013. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vào đầu triều Giáo Hoàng của ngài, đã bổ nhiệm Cha Prevost làm giám mục của Chiclayo ở Peru vào năm 2014, nơi ngài ở lại cho đến Tháng Giêng năm 2023, khi ngài được đưa đến Rôma với tư cách là tổng trưởng Bộ Giám mục, một trong những bộ cao cấp nhất trong Giáo triều Rôma. Được phong làm Hồng Y vào tháng 9 năm 2023, ngài được bầu làm giáo hoàng chưa đầy 22 tháng sau đó.
Ấn tượng ban đầu
Chỉ có những ấn tượng vào buổi đầu, không phải là các phân tích mang tính kết luận. Người mà giáo hoàng mới sẽ là không chính xác là người mà ngài đã từng là. Là Đức Lêô thì khác với là Robert, cũng như là Phêrô thì khác với là Simon. Không thiếu những giáo hoàng đã chứng minh là hoàn toàn khác so với những gì được mong đợi — không chỉ có Đức Thánh Cha Phanxicô. Ví dụ, ngài hiếm khi trả lời phỏng vấn khi còn là tổng giám mục Buenos Aires; khi trở thành giáo hoàng, ngài đã trả lời hơn ba trăm cuộc phỏng vấn, hàng chục cuộc phỏng vấn trong số đó dài bằng một cuốn sách.
Điều đó có thể — hoàn toàn có thể - kết thúc, vì Đức Lêô XIV đã im lặng trong hai năm qua ở Rôma, không bình luận rộng rãi. Phong thái của ngài tự tin, dễ chịu và kín đáo. Tờ báo Ý Corriere della Sera, nghĩa là Tin Chiều, đã sử dụng tiêu đề “Un Papa Calmo” — một vị giáo hoàng điềm tĩnh, thanh thản. Có thể các Hồng Y mong muốn một triều Giáo Hoàng yên tĩnh hơn một chút sau triều Giáo Hoàng Phanxicô quá sôi nổi.
Nghi lễ của Giáo hoàng dường như đã trở lại
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV xuất hiện trên ban công chính của Đền Thờ Thánh Phêrô vào tối thứ năm, và cử hành Thánh lễ tại Nhà nguyện Sistina vào sáng thứ sáu theo một cách hoàn toàn không có gì bất thường. Ngài mặc những gì các giáo hoàng được cho là phải mặc và làm những gì mà các giáo hoàng được cho là phải làm. Đó là một phần của việc trở thành Phêrô hơn là Simon, Đức Lêô hơn là Robert; rất thường xuyên trong 12 năm qua, Jorge đã lui bước trước Phanxicô cho sự nổi bật.
Bài giảng đầu tiên của Đức Lêô tại Nhà nguyện Sistina — được các viên chức Vatican soạn thảo trước, nhưng phải tuân theo các sửa đổi của ngài — dựa trên kinh thánh, Công đồng Vatican II và Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, phù hợp với một tu sĩ dòng Augustinô, những người học hỏi thời kỳ giáo phụ. Các viên chức giáo triều sẽ phải điều chỉnh nếu, khi Đức Tân Giáo Hoàng đề cập đến Inhaxiô, ngài muốn nói đến vị tử đạo đầu tiên chứ không phải vị sáng lập Dòng Tên thế kỷ 16.
Ngài đã nói ngẫu hứng bằng tiếng Anh vào đầu bài giảng của mình, giống như ngài đã nói bằng tiếng Tây Ban Nha trên ban công chính vào tối hôm trước. Một vị giáo hoàng thường xuyên nói tiếng Ý, ngôn ngữ của Rôma, tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ đa số trong số những người Công Giáo, và tiếng Anh, ngôn ngữ toàn cầu, sẽ có một lợi thế lớn.
Và Đức Lêô có thể là người có giọng hát giáo hoàng hay nhất kể từ những năm đầu của Thánh Gioan Phaolô II
Con Sư Tử Thứ 14
Quyết định đầu tiên mà một giáo hoàng mới đưa ra sau khi chấp nhận cuộc bầu cử là lựa chọn danh hiệu; Lêô có nghĩa là “sư tử” trong tiếng Latin và tiếng Ý.
Sự lựa chọn tên này là khoảnh khắc áp lực tinh thần dữ dội với ít thời gian để suy ngẫm, do đó những cái tên thánh thiện như Bênêđíctô, Innôcentê, Piô và Clêmentê rất phổ biến. Hai vị giáo hoàng giáo phụ được gọi là “Cả” là Đức Lêô Cả, cai quản Giáo Hội từ năm 440 đến 461, và Grêgôriô, cai quản Giáo Hội từ năm 590 đến 601, đó là lý do tại sao có rất nhiều vị Giáo Hoàng chọn danh hiệu Lêô và Grêgôriô.
Đức Lêô XIV vẫn chưa giải thích lý do tại sao ngài chọn cái tên đó, vì vậy chúng ta chỉ có thể suy đoán. Điều đáng chú ý là sau những vị giáo hoàng gần đây có sự đổi mới trong danh hiệu của các ngài (cả Đức Gioan Phaolô và Đức Phanxicô), Đức Hồng Y Prevost đã chọn một danh hiệu có tính chất truyền thống hơn.
Phản ứng ban đầu của tôi là hai tiền lệ có liên quan là tiền lệ đầu tiên, Đức Lêô Cả, và tiền lệ cuối cùng, Đức Lêô XIII, cai quản Giáo Hội từ năm 1878-1903. Peggy Noonan đã viết, theo cùng một hướng đó, rằng “Hai vị Giáo Hoàng Lêô quan trọng là Đức Lêô Cả và Đức Lêô thứ XIII.”
Mặc dù những tiền lệ đó có khả năng dẫn đến sự lựa chọn của ngài, nhưng chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn. Có những vị Giáo Hoàng Lêô khác chắc chắn không phải là lý do cho sự lựa chọn của Đức Hồng Y Prevost.
Đức Lêô X, cai quản Giáo Hội từ năm 1513 đến năm 1521, trị vì khi Luther đóng đinh 95 luận đề của mình vào cửa năm 1517, một phần là do Đức Lêô thực hành việc mua bán ân xá. Vị Giáo hoàng tiếp theo cùng tên, Đức Lêô XI, qua đời chỉ sau 27 ngày tại vị, một triều đại ngắn hơn vào năm 1605 so với triều đại 33 ngày của Chân phước Gioan Phaolô I vào năm 1978. Đức Lêô XII, cai quản Giáo Hội từ năm 1823 đến năm 1829, cai trị sau khi Napoleon phá vỡ trật tự Âu Châu và quấy rối giáo hoàng; Đức Lêô XII đã thực hiện một đường lối lạc hậu không thể được đề xuất làm mô hình ngày nay.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
Đức Lêô XIII lên ngôi giáo hoàng ở tuổi 68 và trị vì cho đến năm 93 tuổi, ngài là người lớn tuổi nhất từng giữ chức vụ này và là giáo hoàng tại vị lâu thứ tư, sau Thánh Phêrô, Chân phước Piô IX, là vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài, và Đức Gioan Phaolô II.
Là cha đẻ của giáo lý xã hội Công Giáo hiện đại, Đức Lêô XIII ngay lập tức được nhắc đến sau khi Đức Lêô XIV được bầu. Các phương tiện truyền thông nhấn mạnh rằng Đức Lêô XIII là nhà vô địch của người nghèo, của người lao động, thậm chí của nền kinh tế phân phối lại. Tuy nhiên, Đức Lêô XIII còn nổi bật hơn thế nhiều. Thành tựu đáng chú ý của ngài là nhận ra rằng thế giới Công Giáo Tridentinô, nghi ngờ và thậm chí thù địch với tính hiện đại, cần phải tiến tới tham gia vào các lĩnh vực văn hóa, chính trị và kinh tế. Ngài thông minh, sáng tạo và tự do — nhưng không phải theo cách mà những thuật ngữ đó được sử dụng ngày nay. Phân tích của ngài về hiện đại là cân bằng và cẩn thận, tránh cực đoan trong khi nhấn mạnh vào không gian cho Phúc âm.
Mặc dù sẽ có nhiều bài viết về Đức Lêô XIII — đã là một lợi ích của triều Giáo Hoàng mới! — một vài điểm ban đầu đáng chú ý ngày nay. Trước khi Đức Lêô viết thông điệp Rerum Novarum hay Tân Sự vào năm 1891 — là một hiến chương vĩ đại về giáo huấn xã hội Công Giáo — ngài đã viết Libertas vào năm 1888, bảo vệ tự do là “tài sản tự nhiên vĩ đại nhất”.
Ngài là một giáo hoàng của tự do, và đã viết thông điệp Tân Sự chính xác là để chống lại những thế lực kinh tế đang làm xói mòn chứ không phải mở rộng quyền tự do của người lao động. Ngài đã lên án dữ dội chủ nghĩa cộng sản trước khi nó được thực hiện ở bất cứ đâu.
Đức Lêô XIII cũng viết chống lại “chủ nghĩa Mỹ”, lên án khuynh hướng ở Hoa Kỳ hạ thấp đức tin xuống dưới nền văn hóa địa phương. Điều đó vẫn còn liên quan đến ngày nay, nơi mà — như Đức Hồng Y Prevost đã gặp ở Peru — câu hỏi về sự hội nhập văn hóa vẫn còn tồn tại.
Đức Hồng Y Francis George và Một Giáo Hoàng Người Mỹ
Với cuộc bầu cử của mình, Đức Lêô XIV ngay lập tức làm lu mờ tất cả các Hồng Y trước đó từ Chicago. Người vĩ đại nhất trong số họ, Đức Hồng Y Francis George, đã được nhiều người nghĩ đến gần đây, do kỷ niệm mười năm ngày mất của ngài vào tháng trước, và sự hiện diện tại Rôma của người được ngài bảo trợ, Giám mục Robert Barron, đưa ra bình luận trên phương tiện truyền thông những ngày cuối cùng này với những kỷ niệm về người thầy của mình.
Là một sinh viên say mê nghiên cứu văn hóa Mỹ và lịch sử Giáo hội, Đức Hồng Y George nói với Đức Cha Barron rằng, “cho đến khi nước Mỹ suy thoái về mặt chính trị, sẽ không có một vị giáo hoàng người Mỹ nào cả.” Rất có thể là Hồng Y Đoàn, được tuyển chọn từ mọi nơi trên thế giới, đã kết luận rằng điều đó có thể đã xảy ra. Điều đó cũng vẫn còn phải chờ xem.
Đức Hồng Y George đã rất nghiêm khắc với những người Công Giáo Mỹ đồng hương của mình, bình luận rằng dù được rửa tội là người Công Giáo, họ đã chọn quan điểm Tin lành. Không biết liệu vị giáo hoàng người Mỹ đầu tiên có làm theo người đồng hương Chicago của mình trong việc đưa ra những đánh giá lạnh lùng hay không, nhưng chưa bao giờ có một vị giáo hoàng nào hiểu rõ Hoa Kỳ từ bên trong.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã ám chỉ đến phân tích này trong bài giảng tại Nhà nguyện Sistina, không phải nói về Hoa Kỳ mà là về tình hình toàn cầu.
“Ngay cả ngày nay, vẫn có nhiều bối cảnh mà đức tin Kitô bị coi là vô lý, dành cho những người yếu đuối và không thông minh. Những bối cảnh mà các bảo đảm khác được ưa chuộng, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc thú vui. Đây là những bối cảnh mà không dễ để rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho chân lý của Tin Mừng, nơi những người tin bị chế giễu, chống đối, khinh miệt hoặc tốt nhất là được dung thứ và thương hại,” Đức Tân Giáo Hoàng đã giảng.
“Điều này không chỉ đúng với những người không tin mà còn đúng với nhiều Kitô hữu đã chịu phép rửa tội, những người cuối cùng sống ở mức độ này trong tình trạng vô thần thực tiễn.”
Trong tờ The Wall Street Journal, tôi đã viết về Đức Hồng Y George, người mà hai mươi năm trước, khi bầu Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, đã đứng trên ban công của Nhà thờ Thánh Phêrô nhìn bằng con mắt lịch sử vào thành Rôma đế quốc, đã đổ nát từ lâu. Tuy nhiên, Giáo hội vừa bầu ra người kế nhiệm Thánh Phêrô, là vị Tông đồ mà người Rôma đã xử tử trên đồi Vatican.
Vào năm 1586, Đức Giáo Hoàng Sixtô Đệ Ngũ đã di chuyển một trong những tàn tích đó, một tháp đài nặng 350 tấn đến trung tâm Quảng trường Thánh Phêrô, nơi nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đó sẽ là cột mốc cuối cùng mà Thánh Phêrô nhìn thấy sau khi bị đóng đinh, và là cột mốc đầu tiên mà một giáo hoàng mới nhìn thấy sau khi được bầu.
Trên đỉnh của tháp đài đó là một cây thánh giá bằng đồng, và đặt bên trong đó là thánh tích của Thánh giá thật. Lễ tôn vinh Thánh giá rơi vào ngày 14 tháng 9.
Đó là sinh nhật của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV.
Phêrô lại nhìn lên Thánh giá ở Rôma một lần nữa.
Source:National Catholic Register
7. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phục chức cho tất cả các vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh
Theo tông hiến Universi Dominici Gregis, nghĩa là “Đoàn Chiên Phổ Quát của Chúa”, do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 22-02-1996, sau khi Đức Hồng Y Nhiếp Chính chính thức thông báo cho Hồng Y Đoàn rằng vị Giáo Hoàng đã qua đời, thì bắt đầu từ giờ phút đó, tất cả các vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh bị mất chức, trừ ra vị Hồng Y Nhiếp Chính. Việc cai quản Giáo Hội từ lúc đó do Hồng Y Đoàn chịu trách nhiệm, mặc dù không có quyết định quan trọng nào có thể được đưa ra cho đến khi một Giáo Hoàng mới được bầu.
Đức Thánh Cha Lêô XIV đã quyết định phục chức cho tất cả các vị và đã yêu cầu các viên chức lãnh đạo của Giáo triều Rôma tiếp tục giữ chức vụ của mình, ít nhất là trong tương lai gần, donec aliter provideatur—tức là, trừ khi hoặc cho đến khi ngài đưa ra các sắp xếp khác.
Như thế, có thể chính đáng gọi Đức Hồng Y Pietro Parolin là Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Paul Gallagher là Ngoại trưởng Tòa Thánh.
8. Nhật ký trừ tà #341: Không có lòng thương xót từ quỷ dữ
Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #341: No Mercy from Demons”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #341: Không có lòng thương xót từ quỷ dữ”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Một nhà huyền môn ẩn danh đã nói với tôi rằng một trong những trải nghiệm đáng ngạc nhiên nhất của bà trong một cuộc trừ tà là lũ quỷ hoàn toàn không có một giọt thương xót nào. Trên thực tế, chúng thích thú và được “nuôi dưỡng” bằng nỗi kinh hoàng và đau khổ của những người chúng hành hạ. Điều này được nhiều người đã có những mặc khải riêng tư về địa ngục và đã trải qua sự tàn ác của quỷ ủng hộ.
Khi chúng ta cử hành Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, hãy nhớ điều này: Một trong những thách thức đối với người bị quỷ ám là thực sự tin vào lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Kẻ Ác cám dỗ họ bằng những lời dối trá của địa ngục hoặc những gì chúng ta gọi là “ não quỷ”. Có lẽ điều nguy hiểm nhất và quan trọng nhất cần vượt qua là suy nghĩ cho rằng Chúa không bao giờ có thể tha thứ cho họ.
Trong một cuộc trừ tà gần đây, người bị quỷ ám đã cố gắng bày tỏ tin tưởng vào Lòng Chúa Thương Xót và lũ quỷ hiện diện với sức mạnh khủng khiếp. Khi anh ta có thể nói, tôi đã yêu cầu người đó lặp lại nhiều lần: “Chúa tha thứ tội lỗi của tôi và tôi đón nhận sự tha thứ của Ngài”. Thật khó để anh ta nói điều đó và lũ quỷ rõ ràng đã bị suy yếu khi anh ta nói. Tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa dành cho chúng ta trong Chúa Giêsu và đón nhận lòng thương xót của Chúa là điều quan trọng đối với người bị quỷ ám và đối với tất cả chúng ta.
Trong Nhật ký của mình, Thánh Faustina ghi lại lời hứa ban ân sủng phi thường của Chúa vào Chúa Nhật Lòng Thương Xót ở ba nơi:
Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho những linh hồn sẽ đi xưng tội và rước lễ vào ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta, câu 1109.
Bất cứ ai đến gần Đài phun nước Sự sống vào ngày này sẽ được tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và hình phạt, câu 300.
Linh hồn nào đi xưng tội và rước lễ sẽ được tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và hình phạt, câu 699.
Để nhận được những ân sủng này, điều kiện duy nhất là phải rước lễ xứng đáng vào Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót (hoặc lễ Vọng) bằng cách xưng tội trước và ở trong tình trạng ân sủng và tin tưởng vào Lòng Chúa Thương Xót.
Tôi đã cầu xin Chúa ban cho tôi ân sủng đặc biệt này sau khi đáp ứng những điều kiện đó và đó là khoảnh khắc đầy ân sủng đối với tôi. Tôi khuyên tất cả các bạn hãy cầu xin ân sủng Lòng Thương Xót Chúa đặc biệt này ngay hôm nay.
Không có lòng thương xót trong địa ngục. Chúa Giêsu là nguồn mạch của lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy thường xuyên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy nơi Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con đón nhận sự tha thứ của Chúa.”
Source:Catholic Exorcism