1. Thánh lễ Khai Mạc Sứ Vụ Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh sẽ diễn ra vào Chúa Nhật, ngày 18 tháng 5

Văn phòng báo chí Vatican đã công bố các hoạt động đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bao gồm buổi tiếp kiến chung đầu tiên, tiếp quản nhà thờ chính tòa và Thánh lễ nhậm chức.

Vào ngày 9 tháng 5 năm 2025, Văn phòng báo chí Tòa thánh đã công bố lịch trình các cử hành sắp tới của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, bao gồm Thánh lễ nhậm chức vào ngày 18 tháng 5.

Thứ Bảy, ngày 10 tháng 5: Họp với các Hồng Y.

Chúa Nhật, ngày 11 tháng 5: Vào buổi trưa, đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng từ ban công chính của Đền Thờ Thánh Phêrô. Như thế, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ xuất hiện tại nơi ngài đã được giới thiệu với thế giới lần đầu tiên, thay vì từ cửa sổ phòng làm việc của Đức Giáo Hoàng như các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm vẫn thường làm.

Thứ Hai, ngày 12 tháng 5: Lúc 10 giờ sáng, họp với các ký giả thế giới tại Hội trường Phaolô Đệ Lục.

Thứ Sáu, ngày 16 tháng 5: Tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa thánh.

Chúa Nhật, ngày 18 tháng 5: Lúc 10 giờ sáng, Thánh lễ Khai Mạc Sứ Vụ Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh

Thứ Ba, ngày 20 tháng 5: Tiếp quản đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành.

Thứ Tư, ngày 21 tháng 5: Buổi tiếp kiến chung đầu tiên.

Thứ Bảy, ngày 24 tháng 5: Gặp gỡ Giáo triều Rôma và nhân viên của Thành phố Vatican.

Chúa Nhật, ngày 25 tháng 5: Vào buổi trưa, đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng; tiếp quản Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng; tiếp quản Đền Thờ Đức Bà Cả.

2. Mối quan hệ phức tạp của Trung Quốc với Giáo Hội Công Giáo

Khi Đức Hồng Y Robert Francis Prevost khoác lên mình chiếc áo Giáo hoàng, ngài phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là lãnh đạo Tòa thánh trong bối cảnh quốc tế đầy căng thẳng.

Điều này sẽ liên quan đến quan hệ ngoại giao với các quốc gia có những vấn đề tồn tại lâu dài chưa được giải quyết, trong đó có Trung Quốc.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đợi trọn một ngày trước khi đưa ra thông điệp chia buồn ngắn ngủi sau sự ra đi của Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày 21 tháng 4. Sự việc này xảy ra được kèm theo với việc không có giám mục nào từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến Vatican dự tang lễ của Đức Thánh Cha Phanxicô, không giống như những gì đã xảy ra tại các Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Tính đến thời điểm viết bài này, 8 giờ sáng Thứ Bẩy, 10 Tháng Năm, theo giờ Miền Đông Hoa Kỳ, họ vẫn chưa gửi lời chúc mừng tới Đức Hồng Y Robert Francis Prevost, đã được chọn làm Đức Giáo Hoàng Lêô XIV hôm Thứ Năm, 08 Tháng Năm.

Newsweek đã liên hệ với Đại sứ quán Trung Quốc tại Hoa Kỳ và Vatican qua email để yêu cầu bình luận.

Sự can thiệp của Trung Quốc vào Cơ Mật Viện bầu tân Giáo Hoàng

Ngay trước khi Cơ Mật Viện bắt đầu khai mạc, tại Thượng Hải, các linh mục cùng một số đại diện của các nữ tu và giáo dân đã được triệu tập để phê chuẩn việc lựa chọn một Giám Mục Phụ Tá mới, diễn ra vào ngày 30 Tháng Tư. Cha Ngô Kiến Lâm (Wu Jianlin, 吴建林) tổng đại diện hiện tại, đã được chọn với chỉ một số ít phiếu chống. Điều tương tự cũng xảy ra vào ngày 2 Tháng Năm, tại Giáo phận Tân Hương (Xinxiang, 新乡), tỉnh Hà Nam với chỉ một ứng cử viên, linh mục Lý Kiến Lâm (Li Janlin, 李建林).

Sandro Magister, ký giả kỳ cựu người Ý chuyên về Vatican, cho rằng quyết định tấn phong Giám Mục trái phép của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời gian trống ngôi Giáo Hoàng chắc chắn đã khơi lại cuộc tranh luận về thỏa thuận bí mật chia sẻ quyền lực trong việc bổ nhiệm các Giám Mục Trung Quốc. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của các Hồng Y đang tham dự Cơ Mật Viện bầu tân Giáo Hoàng, cụ thể là đến quyết định có nên bầu cho Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh dưới triều Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và là kiến trúc sư chính cho thỏa thuận Vatican-Trung Quốc. Theo nghĩa đó, Trung Quốc đã can thiệp vào Cơ Mật Viện bầu tân Giáo Hoàng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tấn phong cho 163 Hồng Y từ 76 quốc gia, trong đó có 25 quốc gia chưa bao giờ có Hồng Y. Sự phân tán như vậy có những lợi ích, nhưng liên quan đến việc bầu tân Giáo Hoàng sẽ có trở ngại vì các Hồng Y không biết nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng chủ yếu dựa vào nhóm Hồng Y cố vấn gồm 9 vị. Thành ra, Hồng Y Đoàn ít có dịp gặp gỡ nhau.

Việc công khai vận động tranh cử—hoặc thậm chí thảo luận—về người kế nhiệm Giáo Hoàng khi ngài vẫn còn sống là điều bị nghiêm cấm đối với các Hồng Y. Mặc dù các Hồng Y có thể thảo luận riêng về các ứng cử viên trước Cơ Mật Viện, nhưng việc vận động tranh cử công khai bị phản đối. Thay vào đó, một số Hồng Y có ước muốn trở thành Giáo Hoàng sẽ vận động tranh cử một cách bí mật, thường là bằng cách đi thăm các Hồng Y khác hoặc thuyết trình. Tất cả các phương thức ấy đều rất tốn kém và mất thời gian trong bối cảnh phân tán địa lý của Hồng Y đoàn.

Đó là một thực tế. Tuy nhiên, cách phân tích hệ quả của thực tế ấy đã rất khác biệt. Nhiều người cho rằng thực tế các Hồng Y không biết nhau sẽ dẫn đến một Cơ Mật Viện rất dài. Các quan sát viên người Ý, như Sandro Magister, lại cho rằng chính vì các Hồng Y không biết nhau nên Cơ Mật Viện bầu tân Giáo Hoàng sẽ diễn ra vô cùng nhanh chóng.

Trong Nhà nguyện Sistina, mỗi Hồng Y sẽ viết lựa chọn của mình trên một tờ giấy có khắc dòng chữ tiếng Latinh “Tôi bầu làm Giáo Hoàng tối cao”. Các ngài lần lượt tiến đến bàn thờ và nói: “Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ phán xét tôi, làm chứng rằng phiếu bầu của tôi dành cho người mà trước mặt Chúa, tôi nghĩ rằng nên được bầu”.

Câu hỏi là: “Anh giơ lá phiếu lên và thề một cách long trọng như thế, anh dám bầu cho một người lạ, anh không quen biết không? Anh có dám làm như thế không?” Thành ra, các quan sát viên dự đoán rằng các Hồng Y sẽ dồn phiếu cho những vị trong Giáo triều Rôma, là những người ít nhiều gì các ngài cũng quen biết hơn hẳn những vị khác. Như chúng tôi đã tường trình, theo tờ Corriere della Sera, nếu bạn hỏi một người nào đó trên đường phố Rôma ngày nào có vị Tân Giáo Hoàng, họ sẽ trả lời Thứ Năm, 08 Tháng Năm. Chỉ có một câu trả lời duy nhất, mặc dù đã có những cảnh báo rằng Cơ Mật Viện lần này có thể sẽ kéo dài hơn hai Cơ Mật Viện trước đó. Tờ báo cũng dự đoán Đức Hồng Y Pietro Parolin, nguyên Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, sẽ được bầu làm Giáo Hoàng. Cùng lúc đó, Sandro Magister cảnh báo Bắc Kinh có thể đã báo hại Đức Hồng Y Parolin. Điều đó, đã thành sự thật.

Lịch sử lâu dài hoài nghi về các tôn giáo

Bắc Kinh có lịch sử lâu dài hoài nghi về các tôn giáo có tổ chức, bao gồm các tổ chức có thẩm quyền khác ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền.

Người ta ước tính có khoảng 6 triệu người Trung Quốc thuộc Giáo Hội Công Giáo được nhà nước công nhận của đất nước này, do Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc giám sát. 6 triệu người khác được cho là thành viên của Giáo hội thầm lặng, đưa tổng số tín hữu Công Giáo Hoa Lục ngang bằng với dân số của Bỉ.

Không rõ giáo hoàng mới sẽ tiếp cận với thỏa thuận chia sẻ quyền lực tạm thời với Trung Quốc như thế nào, được thực hiện trong nhiệm kỳ của Đức Thánh Cha Phanxicô vào năm 2018 và được gia hạn vào năm ngoái thêm 4 năm. Thỏa thuận này cho phép chính quyền Trung Quốc bổ nhiệm các giám mục cho Giáo hội do nhà nước công nhận, với Vatican—trên lý thuyết—giữ lại thẩm quyền phê duyệt hoặc phủ quyết các lựa chọn này.

Đức Thánh Cha Phanxicô bảo vệ thỏa thuận này như một phương tiện không hoàn hảo nhưng quan trọng để duy trì mối quan hệ. “Tôi đã chọn con đường đối thoại. Nó chậm, nó có những thất bại, nó có những thành công, nhưng tôi không thể tìm ra cách nào khác”, ngài nói trong một cuộc phỏg vấn năm 2022.

Cùng năm đó, Vatican cáo buộc Trung Quốc vi phạm thỏa thuận bằng cách bổ nhiệm một giám mục để lãnh đạo một giáo phận không được Giáo hội công nhận. Năm 2023, Bắc Kinh đã bổ nhiệm một giám mục khác để lãnh đạo Giáo phận Thượng Hải mà không tham khảo ý kiến của Vatican, mặc dù sau đó Đức Phanxicô đã công nhận việc bổ nhiệm này.

Thỏa thuận năm 2018 không phải là không có những lời chỉ trích. Một giáo sĩ, Cha Bernardo Cervellera thuộc Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại, đã nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 với tờ The New York Times: “Thoả thuận không đề cập đến những người đang ở trong tù, và những người không muốn thuộc về nhà thờ quốc doanh. Tôi hoàn toàn không rõ điều gì sẽ xảy ra với họ?”

Người Công Giáo ở Trung Quốc không phải là các Kitô hữu duy nhất phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn. Các nhà hoạt động cho biết tôn giáo nói chung đang ngày càng bị bao vây.

Phó Hy Thu (Bob Fu, 傅希秋) người sáng lập ChinaAid có trụ sở tại Texas - một nhóm cung cấp hỗ trợ pháp lý cho các Kitô hữu ở Trung Quốc - cho biết cuộc đàn áp dưới thời nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã đạt đến mức độ chưa từng thấy kể từ thời Cách mạng Văn hóa dưới thời Mao Trạch Đông.

“Ngoài cuộc diệt chủng các nhóm người như người Duy Ngô Nhĩ và người Tây Tạng, các Kitô hữu ở Trung Quốc đang phải chịu sự đàn áp tồi tệ nhất kể từ thời Cách mạng Văn hóa”, Ông Thu phát biểu trong hội nghị thượng đỉnh tôn giáo vào tháng 7 năm 2024 tại Tokyo, Nhật Bản.

Ông cho biết cuộc đàn áp này chủ yếu được thực hiện dưới danh nghĩa “Hán hóa”, với các nhà thờ và đền thờ Hồi giáo được yêu cầu hát những bài hát ca ngợi đảng và treo ảnh của Tập và Mao trên bục giảng của nhà thờ.

Năm 2018, Cảnh sát vũ trang nhân dân bán quân sự đã sử dụng thuốc nổ và máy xúc để phá hủy một nhà thờ ở Lâm Phần, tỉnh Sơn Tây, nơi có 50.000 giáo dân. Chính quyền tuyên bố rằng nhà thờ lớn này - được xây dựng gần một thập niên trước - đã vi phạm các quy định về xây dựng, một lý do thường được sử dụng để chống lại các nhà thờ chưa ghi danh.

Đài Loan

Một điểm khác gây căng thẳng cho mối quan hệ với Trung Quốc là thực tế Vatican vẫn là một trong số ít đồng minh chính thức của Đài Loan, nền dân chủ tự trị mà Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của mình—và đã tuyên bố sẽ sáp nhập bằng vũ lực nếu cần thiết.

Chính phủ Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, đã chạy trốn đến hòn đảo này sau khi thua cuộc nội chiến Trung Quốc trước phe cộng sản của Mao năm 1949. Trung Quốc đã lần lượt lôi kéo các đồng minh ngoại giao đang ngày càng suy yếu của Đài Loan.

Vấn đề này có khả năng sẽ vẫn là điểm gây tranh cãi khi Trung Quốc tiếp tục chiến dịch gây áp lực về quân sự, kinh tế và ngoại giao lên nước láng giềng.

“Thay mặt cho chính phủ và nhân dân Đài Loan, tôi chân thành chúc mừng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và cầu chúc Đức Thánh Cha ban cho sự khôn ngoan và ân sủng trong sứ mệnh mới của ngài,” Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức ( Lai Ching-te, 賴清德) cho biết trong một tuyên bố vào thứ sáu. “Chúng tôi mong muốn xây dựng mối quan hệ ngoại giao với Tòa thánh, đã kéo dài 83 năm, để thúc đẩy hòa bình, công lý, đoàn kết và lòng nhân từ.”

Đại Sứ Lý Thế Minh (Matthew Lee, 李世明) đại sứ sắp mãn nhiệm của Đài Loan tại Tòa thánh, đã gợi ý rằng quan hệ song phương sẽ tiếp tục theo con đường hiện tại. Nhắc lại cuộc trò chuyện năm 2023 với vị Hồng Y khi đó, Đại Sứ Lý Thế Minh nói với Cơ quan Thông tấn Trung ương Đài Loan rằng Lêô có cái nhìn sâu sắc về sự khác biệt giữa “Đài Loan dân chủ và Trung Quốc cộng sản”.


Source:Newsweek

3. Vladimir Putin gửi thông điệp tới Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV, vị Giáo hoàng người Mỹ đầu tiên

Putin đã gửi “lời chúc mừng chân thành” tới Đức Giáo Hoàng Lêô XIV mới được bầu, là vị Giáo hoàng người Mỹ đầu tiên.

Trong thông điệp được đăng trên trang web chính thức của Điện Cẩm Linh, Putin bày tỏ lời chúc “thành công trong việc hoàn thành nhiệm vụ cao cả được giao phó, cùng với sức khỏe và hạnh phúc”.

“Tôi tin tưởng rằng cuộc đối thoại và hợp tác mang tính xây dựng giữa Nga và Vatican sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, dựa trên các giá trị Kitô giáo chung, là những gì đoàn kết chúng ta”, Putin nói.

Putin đã gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước đó ba lần, lần cuối nói chuyện qua điện thoại là vài tuần trước khi Nga xâm lược Ukraine vào đầu năm 2022. Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên kêu gọi hòa bình ở Ukraine và mối quan hệ trở nên căng thẳng khi cuộc xung đột tiếp diễn.

Putin, người tự nhận mình là tín hữu Chính thống giáo Nga, đã dựa vào các giá trị bảo thủ chung của Chính Thống Giáo khi tương tác với Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào nhiều thời điểm khác nhau, bao gồm cả trong thông điệp gửi tới Đức Giáo Hoàng Lêô XIV vào thứ năm.

Mặc dù Putin tỏ ra tôn trọng Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô, nhưng ông không lắng nghe lời kêu gọi hòa bình của ngài trong nhiều năm, kể cả khi Nga sáp nhập Crimea và sau đó xâm lược một số vùng của Ukraine.

Theo National Catholic Register, Giáo Hội Công Giáo tại Nga phần lớn vẫn im lặng trong ba năm kể từ cuộc xâm lược, chỉ thỉnh thoảng lên tiếng ủng hộ mong muốn chấm dứt xung đột của Đức Phanxicô, trong khi lãnh đạo Giáo hội Chính thống giáo Nga lại ca ngợi hành động của Putin.

Các nhà lãnh đạo thế giới đã bày tỏ hy vọng rằng vị Giáo hoàng người Mỹ đầu tiên sẽ tiếp tục những nỗ lực vì hòa bình và công lý xã hội do người tiền nhiệm của ngài thực hiện, trong khi Tổng thống Israel Isaac Herzog cho biết ông hy vọng rằng vị Giáo hoàng mới sẽ nỗ lực xây dựng cầu nối giữa mọi tín ngưỡng.

Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva, cho biết : “Tôi muốn chào mừng Đức Hồng Y người Mỹ Robert Prevost, người được chọn ngày hôm nay để lãnh đạo vận mệnh của Giáo Hội Công Giáo, với danh hiệu là Lêô XIV.”

“Tôi hy vọng ngài sẽ tiếp tục di sản của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người có những đức tính chính là không ngừng tìm kiếm hòa bình và công lý xã hội, bảo vệ môi trường, đối thoại với mọi người dân và mọi tôn giáo, và tôn trọng sự đa dạng của con người.

“Chúng ta không cần chiến tranh, hận thù và sự bất khoan dung. Chúng ta cần nhiều sự đoàn kết và chủ nghĩa nhân văn hơn. Chúng ta cần tình yêu thương đối với người lân cận, đó là nền tảng của giáo lý của Chúa Kitô. Xin Đức Giáo Hoàng Lêô XIV ban phước lành và truyền cảm hứng cho chúng ta trong nỗ lực liên tục của chúng ta để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn và công bằng hơn.”

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, trên Truth Social: “Xin chúc mừng Đức Hồng Y Robert Francis Prevost, người vừa được chọn làm Đức Giáo Hoàng. Thật vinh dự khi biết rằng ngài là Đức Giáo Hoàng người Mỹ đầu tiên. Thật phấn khích và thật là một Vinh dự Lớn cho Đất nước chúng ta. Tôi mong được gặp Đức Giáo Hoàng Lêô XIV. Đó sẽ là một khoảnh khắc rất có ý nghĩa.”

Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô, phát biểu với hãng thông tấn Associated Press: “Tôi chào đón Đức Giáo Hoàng mới, tân Giám mục của Rôma, với tình yêu thương anh em sâu sắc trong Chúa Kitô và những kỳ vọng lớn lao... Tôi hy vọng rằng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ là một người anh em và cộng sự thân mến... vì sự hiệp nhất của toàn thể gia đình Kitô giáo và vì lợi ích của toàn thể nhân loại.”


Source:Newsweek

4. Bài Giảng trong thánh lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha Lêô XIV

Tuyệt Đẹp: Hầu như không có từ nào khác để mô tả Thánh lễ đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV. Những màu sắc rực rỡ của các bức bích họa trong Nhà nguyện Sistina tương phản với lễ phục trắng chói lọi của từng hàng Hồng Y, đôi khi có sự xuất hiện của một Hồng Y mặc trang phục sáng màu của các Giáo hội Đông phương.

Những giai điệu được ngân nga hoàn hảo của dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistina và những chuyển động cẩn thận chính xác của các giám mục phụ trách các nghi lễ của giáo hoàng. Đó là Giáo hội trong tất cả sự huy hoàng của mình, tự hào và vui mừng với Người kế vị mới của Thánh Phêrô trong thánh lễ bế mạc Cơ Mật Viện vào lúc 11g sáng Thứ Sáu, 09 Tháng Năm.

Với sức mạnh của tuổi trẻ, vì ngài mới 69 tuổi, và giọng nói chắc nịch, Đức Tân Giáo Hoàng bắt đầu bài giảng bằng tiếng mẹ đẻ của mình.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Tôi bắt đầu bằng tiếng Anh -- và phần còn lại bằng tiếng Ý -- nhưng tôi muốn nhắc lại những lời trong Thánh Vịnh Đáp Ca: “Tôi sẽ hát mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã làm những điều kỳ diệu.” Và thực sự không chỉ với tôi mà với tất cả chúng ta, những anh em Hồng Y của tôi, khi chúng ta cử hành sáng nay, tôi mời gọi anh em hãy nhận ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm, những phước lành mà Chúa tiếp tục đổ xuống trên tất cả chúng ta. Qua sứ vụ của Phêrô -- anh em đã kêu gọi tôi mang thập giá đó, và được ban phước với sứ mệnh đó. Và tôi biết tôi có thể tin tưởng vào từng người trong anh em để cùng tôi bước đi khi chúng ta tiếp tục như một Giáo hội, như một cộng đồng bạn hữu của Chúa Giêsu, như những người tin, để loan báo tin mừng, để loan báo Phúc âm.

Và sau đó ngài quay sang bản văn đã chuẩn bị bằng tiếng Ý.

“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Qua những lời này, Phêrô, được Thầy hỏi, cùng với các môn đệ khác, về đức tin của mình đối với Người, đã bày tỏ di sản mà Giáo hội, qua sự kế vị tông đồ, đã gìn giữ, đào sâu và truyền lại trong hai ngàn năm qua.

Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống: Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng duy nhất mặc khải thiên nhan của Chúa Cha.

Trong Người, Thiên Chúa, để làm cho mình gần gũi và dễ tiếp cận với con người, đã tỏ mình ra cho chúng ta trong đôi mắt tin tưởng của một đứa trẻ, trong tâm trí sống động của một người trẻ và trong những nét trưởng thành của một người đàn ông (x. Gaudium et Spes, 22), cuối cùng hiện ra với các môn đệ của Người sau khi phục sinh với thân xác vinh quang của Người. Như vậy, Người đã cho chúng ta thấy một mẫu gương thánh thiện của con người mà tất cả chúng ta có thể noi theo, cùng với lời hứa về một số phận vĩnh cửu vượt trên mọi giới hạn và khả năng của chúng ta.

Phêrô, trong câu trả lời của mình, hiểu cả hai điều này: ân sủng của Thiên Chúa và con đường phải theo để cho phép mình được thay đổi bởi ân sủng đó. Chúng là hai khía cạnh không thể tách rời của ơn cứu độ được trao phó cho Giáo hội để công bố vì lợi ích của nhân loại. Thật vậy, chúng được trao phó cho chúng ta, những người đã được Người chọn trước khi chúng ta được hình thành trong lòng mẹ (x. Gr 1:5), được tái sinh trong nước Rửa tội và, vượt qua những giới hạn của chúng ta và không có công trạng gì của riêng chúng ta, được đưa đến đây và được sai đi từ đây, để Tin Mừng có thể được công bố cho mọi loài tạo vật (x. Mc 16:15).

Theo một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã gọi tôi qua cuộc bầu cử của anh em để kế vị thủ lĩnh các Tông đồ, và đã trao phó kho tàng này cho tôi để, với sự giúp đỡ của Người, tôi có thể trở thành người quản lý trung thành kho tàng này (x. 1 Cr 4:2) vì lợi ích của toàn thể Thân thể huyền nhiệm của Giáo hội. Người đã làm như vậy để Giáo hội ngày càng trở thành một thành phố trên đồi (x. Kh 21:10), một con tàu cứu độ đang lướt trên mặt nước của lịch sử và là ngọn hải đăng soi sáng những đêm đen của thế giới này. Và điều này, không phải thông qua sự tráng lệ của các công trình kiến trúc hay sự hùng vĩ của các tòa nhà của Giáo hội - giống như các tượng đài mà chúng ta đang ở giữa - mà đúng hơn là thông qua sự thánh thiện của các thành viên của Giáo hội. Vì chúng ta là dân mà Thiên Chúa đã chọn làm của riêng Người, để chúng ta có thể loan báo những kỳ công của Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi bóng tối vào ánh sáng kỳ diệu của Người (x. 1 Pr 2:9).

Tuy nhiên, Phêrô tuyên xưng đức tin để trả lời một câu hỏi cụ thể: “Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16:13). Câu hỏi này không phải là không quan trọng. Nó liên quan đến một khía cạnh thiết yếu của chức thánh của chúng ta, cụ thể là thế giới mà chúng ta đang sống, với những hạn chế và tiềm năng của nó, những câu hỏi và niềm tin của nó.

“Người ta bảo Con Người là ai?” Nếu chúng ta suy ngẫm về bối cảnh mà chúng ta đang xem xét, chúng ta có thể tìm thấy hai câu trả lời khả thi, đặc trưng cho hai thái độ khác nhau. Đầu tiên, có phản ứng của thế giới. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng cuộc trò chuyện này giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người diễn ra tại thị trấn xinh đẹp Cêsarê Philippê, nơi có nhiều cung điện xa hoa, nằm trong một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ dưới chân Núi Hermon, nhưng cũng là nơi diễn ra những trò chơi quyền lực tàn ác và là bối cảnh của sự phản bội và bất trung. Bối cảnh này nói với chúng ta về một thế giới coi Chúa Giêsu là một người hoàn toàn tầm thường, tốt nhất là như một người có cách nói và hành động khác thường và nổi bật. Và vì vậy, một khi sự hiện diện của Người trở nên khó chịu vì những đòi hỏi về sự trung thực và các yêu cầu đạo đức nghiêm ngặt của Người, thì “thế giới” này sẽ không ngần ngại từ chối và loại bỏ Người.

Sau đó, có một câu trả lời khả dĩ khác cho câu hỏi của Chúa Giêsu: đó là câu trả lời của những người bình thường. Đối với họ, Chúa Giêsu thành Nazarét không phải là một kẻ lừa đảo, mà là một người đàn ông ngay thẳng, một người có lòng can đảm, người nói hay và nói những điều đúng đắn, giống như những nhà tiên tri vĩ đại khác trong lịch sử Israel. Đó là lý do tại sao họ theo Ngài, ít nhất chừng nào họ có thể làm như vậy mà không có quá nhiều rủi ro hoặc bất tiện. Tuy nhiên, đối với họ, Ngài chỉ là một người đàn ông, và do đó, trong thời điểm nguy hiểm, trong cuộc khổ nạn của Ngài, họ cũng bỏ rơi Ngài và ra đi trong sự thất vọng.

Điều đáng chú ý về hai thái độ này là sự liên quan của chúng đến ngày nay. Chúng thể hiện những quan niệm mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên môi của nhiều người đàn ông và phụ nữ trong thời đại của chúng ta, ngay cả khi về cơ bản là giống hệt nhau, chúng được diễn đạt bằng những ngôn ngữ khác nhau.

Ngay cả ngày nay, vẫn có nhiều bối cảnh mà đức tin Kitô bị coi là vô lý, dành cho những người yếu đuối và không thông minh. Những bối cảnh mà các bảo đảm khác được ưa chuộng, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc thú vui.

Đây là những bối cảnh mà không dễ để rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho chân lý của Tin Mừng, nơi những người tin bị chế giễu, chống đối, khinh miệt hoặc tốt nhất là được dung thứ và thương hại. Tuy nhiên, chính vì lý do này, đây là những nơi mà hoạt động truyền giáo của chúng ta vô cùng cần thiết. Thiếu đức tin thường đi kèm một cách bi thảm với việc mất đi ý nghĩa trong cuộc sống, sự thờ ơ với lòng thương xót, sự vi phạm khủng khiếp đối với phẩm giá con người, cuộc khủng hoảng gia đình và rất nhiều vết thương khác đang hành hạ xã hội ta. Ngày nay, cũng có nhiều bối cảnh mà Chúa Giêsu, mặc dù được đánh giá cao như một con người, nhưng lại bị hạ thấp xuống thành một kiểu nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn hoặc siêu nhân. Điều này không chỉ đúng với những người không tin mà còn đúng với nhiều Kitô hữu đã chịu phép rửa tội, những người cuối cùng sống, ở mức độ này, trong tình trạng vô thần thực tiễn. Đây là thế giới đã được giao phó cho chúng ta, một thế giới mà, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dạy chúng ta rất nhiều lần, chúng ta được kêu gọi làm chứng cho đức tin vui mừng của mình vào Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Vì thế, điều cốt yếu là chúng ta cũng lặp lại, với Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Điều cốt yếu là phải làm điều này, trước hết, trong mối quan hệ cá vị của chúng ta với Chúa, trong cam kết của chúng ta đối với hành trình hoán cải hằng ngày. Sau đó, thực hiện như một Giáo hội, cùng nhau trải nghiệm lòng trung thành của chúng ta với Chúa và mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. Lumen Gentium, 1). Trước hết, tôi nói điều này với chính mình, với tư cách là Người kế vị Thánh Phêrô, khi tôi bắt đầu sứ mệnh của mình với tư cách là Giám mục Rôma và, theo cách diễn đạt nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, được kêu gọi chủ trì trong đức ái trên Giáo hội hoàn vũ (x. Thư gửi tín hữu Rôma, Lời tựa). Thánh Inhaxiô, người bị xiềng xích dẫn đến thành phố này, nơi diễn ra cuộc hy sinh sắp xảy ra của ngài, đã viết cho các Kitô hữu ở đó: “Khi đó, tôi sẽ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, khi thế gian không còn thấy thân xác tôi nữa” (Thư gửi tín hữu Rôma, IV, 1). Thánh Inhaxiô đã nói về việc bị thú dữ ăn thịt trong đấu trường – và điều đó đã xảy ra – nhưng những lời của ngài áp dụng chung hơn cho một cam kết không thể thiếu đối với tất cả những người trong Giáo hội đang thực hiện một thừa tác vụ có thẩm quyền. Đó là tránh sang một bên để Chúa Kitô có thể ở lại, làm cho mình trở nên nhỏ bé để Người có thể được biết đến và tôn vinh (x. Ga 3:30), cống hiến hết mình để tất cả mọi người có thể có cơ hội biết đến và yêu mến Người.

Xin Chúa ban cho con ơn này, hôm nay và mãi mãi, qua sự chuyển cầu yêu thương của Đức Maria, Mẹ Giáo hội.

5. Những điều bạn nên biết về Thánh Augustinô và Giáo hoàng dòng Augustinô mới

Khi Giáo hội đứng trước ngã ba đường trong một thế giới chia rẽ, một Giáo hoàng dòng Augustinô phải đối mặt với thách thức đặc biệt là kêu gọi các tín hữu sống hiệp nhất hơn.

Với việc bầu Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, một tu sĩ dòng Augustinô, việc quay trở lại di sản sâu sắc của Thánh Augustinô, một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của Giáo hội, dường như là điều không thể thiếu. Cuộc đời và các tác phẩm của Augustinô cung cấp những hiểu biết sâu sắc về bản chất của sự tha thứ, ký ức và bản ngã—những khái niệm cộng hưởng sâu sắc với sứ mệnh của một giáo hoàng bắt nguồn từ di sản của ngài.

Trọng tâm tư tưởng của Augustinô là cái nhìn sâu sắc đáng kinh ngạc về bản chất của bản ngã con người. Trong cuốn Tự Thú, Thánh Augustinô nổi tiếng với sự phản ánh về bản chất rời rạc của tâm hồn mình, mô tả bản thân là “rải rác giữa các thời đại” mà ngài không thể hiểu được, và đấu tranh để tập hợp những ham muốn và suy nghĩ khác biệt của mình thành một tổng thể mạch lạc. Sự hỗn loạn bên trong này không chỉ đơn thuần là sản phẩm phụ của tội lỗi mà còn là đặc điểm của chính tình trạng con người - hậu quả của việc tồn tại trong thời gian và liên tục hướng tới sự không tồn tại. Khái niệm về bản ngã của Thánh Augustinô vừa mang tính giai đoạn (bản ngã thay đổi theo thời gian) vừa mang tính dai dẳng (bản ngã mà chúng ta có thể nhận ra trong ký ức của mình, mặc dù chúng ta “không còn” là người đó nữa) đã nắm bắt được sự căng thẳng này, cho thấy rằng bản ngã thực sự không chỉ đơn thuần là một tập hợp các ký ức trong quá khứ mà là một cốt lõi sâu sắc, dai dẳng vẫn tồn tại ngay cả khi mọi thứ khác dường như thay đổi và cuối cùng, biến mất.

Bản ngã phân mảnh này tìm thấy sự thống nhất thông qua cái mà Thánh Augustinô gọi là continentalia, một loại sự kiềm chế tinh thần tập hợp những mảnh vỡ của bản ngã thành một tổng thể thống nhất duy nhất. Sự chuyển động hướng tới sự thống nhất này vừa là một hành trình hướng nội vừa là một hành trình hướng lên, phản ánh câu nói nổi tiếng của Augustinô trong Tự Thuá: “Bạn đã hướng nội hơn cả bản ngã sâu thẳm nhất của tôi” (interior intimo meo).

Sự tha thứ như một “Bây giờ” cấp tiến

Trọng tâm trong tầm nhìn tâm linh của Augustinô là ý tưởng về sự tha thứ như một khoảnh khắc hiện tại, có khả năng biến đổi—một “bây giờ” ngắt quãng chuỗi đơn điệu của “ngày mai này nối tiếp ngày mai khác”, cras et cras, trong tiếng Latin gốc. Sự hiểu biết này về sự tha thứ vượt ra ngoài sự tha thứ đơn thuần để bao gồm một sự hồi tưởng sâu sắc, hiện sinh về bản thân, một sự tập hợp đột ngột các phần bị phân tán thành một tổng thể thống nhất. Nó không chỉ đơn thuần là xóa bỏ những tội lỗi trong quá khứ mà còn là trở thành một “sáng tạo mới”, một bản thân được giải thoát khỏi xiềng xích của những hành vi sai trái trong quá khứ.

Cảnh cải đạo nổi tiếng của Thánh Augustinô đã nắm bắt chính xác điều này. Trong khoảnh khắc xung đột nội tâm dữ dội, Thánh Augustinô mô tả cảm giác như thể ngài bị trói buộc bởi sợi xích nhỏ nhất, không thể thoát ra cho đến khi ân sủng cải đạo cho phép ngài đứng “thẳng” (factus erectior) và ôm lấy một bản ngã mới, toàn vẹn. Sự tái sinh này, “bây giờ” triệt để này, là một khía cạnh trung tâm trong sự hiểu biết của Thánh Augustinô về sự tha thứ. Đúng vậy, đó là một hành động của ân sủng thiêng liêng, nhưng cũng là một hành động tự chiếm đoạt - một sự đòi lại bản ngã thực sự của một người, thường ẩn giấu dưới nhiều lớp thói quen và ký ức.

Đối với Thánh Augustinô, trí nhớ là một món quà mạnh mẽ nhưng có hai lưỡi. Nó vừa là nguồn gốc của bản sắc của chúng ta vừa là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh sâu sắc nhất của chúng ta. Trong khi trí nhớ cho phép chúng ta nhớ lại và tích hợp những trải nghiệm trong quá khứ, nó cũng đối mặt với chúng ta với những giới hạn trong sự hiểu biết của chúng ta và những bóng đen dai dẳng của những tội lỗi trong quá khứ. Nghịch lý này là trọng tâm trong khái niệm về bản ngã của Thánh Augustinô, nơi các khía cạnh theo giai đoạn và dai dẳng của bản ngã liên tục đối thoại.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, rút ra từ di sản phong phú của Augustinô này, có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ghi nhớ không chỉ tội lỗi của chúng ta, mà còn cả ân sủng thiêng liêng liên tục kêu gọi chúng ta đổi mới và biến đổi. Trong một thế giới thường được xác định bởi sự chia rẽ và xao lãng, sự tập trung vào sự hiệp nhất, tự chủ và tha thứ triệt để này có thể định hình triều Giáo Hoàng của ngài theo những cách sâu sắc.

Thách thức của một Giáo hoàng Augustinô

Khi Giáo hội đứng trước ngã ba đường trong một thế giới chia rẽ, một giáo hoàng Augustinô có thách thức độc đáo là kêu gọi các tín hữu đến với một cuộc sống sâu sắc hơn, hòa nhập hơn. Điều này có nghĩa là khuyến khích một hình thức hiệp nhất tinh thần vượt qua kiểu cải cách thể chế đơn thuần và chạm đến chính tâm hồn của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, giống như những vị Giáo Hoàng Lêô, có thể sẽ dựa vào di sản mạnh mẽ này để nhắc nhở chúng ta rằng cải cách thực sự bắt đầu từ bên trong, trong công việc thường ẩn giấu của sự hoán cải và hòa giải cá nhân.

Theo lời của Thánh Augustinô, “Trái tim chúng con luôn bồn chồn cho đến khi được nghỉ ngơi trong Ngài.” Sự bồn chồn này, sự phấn đấu không ngừng cho sự hiệp nhất này, là một thách thức mà Giáo hội phải đối mặt một lần nữa trong mỗi thế hệ—và là thách thức mà một giáo hoàng theo dòng Augustinô được trang bị một cách độc đáo để lãnh đạo.