Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Chúa Nhật 4 Phục Sinh dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
03:50 10/05/2025
BÀI ĐỌC 1 Bài trích sách Công vụ Tông Đồ. Cv 13:14,43-52
Ngày ấy, hai ông Phao-lô và Ba-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti- ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự. Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng:
“Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Đó là Lời Chúa.
BÀI ĐỌC 2 Kh 7:9,14b-17
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
Tôi là Gio-an, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn.
Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG
Alleluia. Alleluia. Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Alleluia.
TIN MỪNG Ga 10:27-30
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng:
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Đó là Lời Chúa.
Rất khẽ
Lm Minh Anh
15:20 10/05/2025
RẤT KHẼ
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”.
“Giêsu Mục Tử không bao giờ ngừng gọi. Nhưng con người hôm nay, vì sống quá ồn ào, nên không còn nhận ra tiếng nói dịu dàng nhưng rất khẽ của Ngài!” - Gioan Phaolô II.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Chiên Lành mở đầu với khẳng định của Chúa Giêsu, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Giữa một thế giới xao động, điều này thật khó, vì Ngài gọi ‘rất khẽ!’.
Câu hỏi đầu tiên có thể đặt ra là: Tôi có biết tiếng của Mục Tử; nó đã trở nên quá quen thuộc đến mức tôi có thể phân biệt rõ tiếng Ngài với tiếng của người lạ? Thử tưởng tượng một số mục tử cùng gọi đàn chiên của họ trong một lúc. Đây là hình ảnh của những tiếng nói cạnh tranh trong cuộc sống bạn; nhưng chỉ có một trong chúng là tiếng của Chúa. Bạn có nhận ra tiếng Ngài hay trở nên bối rối bởi nhiều xung lực, ham muốn và hấp dẫn khác đang giành giật? Đó là những câu hỏi quan trọng. “Lời Chúa thì nhỏ nhẹ, không cưỡng ép. Chỉ ai có tâm hồn tĩnh lặng và biết yêu mới nghe được tiếng của Mục Tử!” - Têrêsa Avila.
Có rất nhiều tiếng nói cạnh tranh nói với chúng ta mỗi ngày. Từ những tin tức mới nhất trên các tiêu đề đến ý kiến của bạn bè và gia đình, đến những cám dỗ trong thế giới tục luỵ và cả những ý kiến tự mình đặt ra. Những “tiếng nói” hoặc “ý tưởng” đó lấp đầy tâm trí và thật không dễ để có thể phân loại. Điều gì đến từ Chúa? Điều gì đến từ các nguồn khác?
Thế nhưng, nhận ra tiếng Chúa vẫn là điều có thể. Trước hết, Thánh Kinh! Đọc Thánh Kinh, bạn sẽ ngày càng quen với tiếng Chúa. Ngài nói qua những soi dẫn ‘rất khẽ’ đưa đến bình an. Ví dụ, khi cân nhắc một quyết định, bạn trình bày với Chúa qua cầu nguyện; sau đó, cởi mở với bất cứ điều gì Ngài muốn, thường thì câu trả lời của Ngài đến dưới hình thức một sự bình an sâu sắc và chắc chắn trong lòng. “Khi ở lại trong cô tịch và thinh lặng của tâm hồn, Mục Tử sẽ gọi ta - không bằng tiếng ồn, mà bằng tình yêu!” - Charles de Foucauld.
Học cách nhận ra tiếng nói của Chúa trong cuộc sống được thực hiện bằng cách xây dựng một thói quen lắng nghe, nhận ra, đáp lại, lắng nghe nhiều hơn. Càng nghe tiếng Chúa, bạn càng nhận ra nó theo cách tinh tế nhất, và càng nghe những tinh tế của Ngài, bạn càng muốn đi theo Ngài. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua thói quen cầu nguyện sâu sắc và liên tục. Không có điều đó, sẽ rất khó để nhận ra tiếng của Mục Tử Nhân Lành Giêsu khi bạn cần Ngài nhất. “Chúa nói với linh hồn trong đêm tối, khi mọi tiếng ồn bên ngoài lắng dịu. Chỉ khi đó linh hồn mới nghe được tiếng gọi dịu dàng của Mục Tử!” - Gioan Thánh Giá.
Anh Chị em,
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Hãy suy ngẫm về việc bạn chú ý đến Chúa như thế nào trong cầu nguyện. Bạn cầu nguyện mỗi ngày làm sao? Bạn có dành thời gian để lắng nghe tiếng nói dịu dàng và tuyệt vời của Chúa? Bạn có tìm cách hình thành thói quen để tiếng Ngài ngày càng rõ hơn? Vậy nếu còn phải đấu tranh để nhận ra tiếng nói của Ngài, hôm nay, bạn hãy quyết định thiết lập một thói quen cầu nguyện sâu sắc hơn để từ đó, lắng nghe tiếng nói của Đấng yêu thương dẫn dắt bạn mỗi ngày!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ước gì cầu nguyện là hơi thở của con, nhịp tim của con; hầu khi Chúa gọi, con sẵn sàng thưa, này con đây!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”.
“Giêsu Mục Tử không bao giờ ngừng gọi. Nhưng con người hôm nay, vì sống quá ồn ào, nên không còn nhận ra tiếng nói dịu dàng nhưng rất khẽ của Ngài!” - Gioan Phaolô II.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Chiên Lành mở đầu với khẳng định của Chúa Giêsu, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Giữa một thế giới xao động, điều này thật khó, vì Ngài gọi ‘rất khẽ!’.
Câu hỏi đầu tiên có thể đặt ra là: Tôi có biết tiếng của Mục Tử; nó đã trở nên quá quen thuộc đến mức tôi có thể phân biệt rõ tiếng Ngài với tiếng của người lạ? Thử tưởng tượng một số mục tử cùng gọi đàn chiên của họ trong một lúc. Đây là hình ảnh của những tiếng nói cạnh tranh trong cuộc sống bạn; nhưng chỉ có một trong chúng là tiếng của Chúa. Bạn có nhận ra tiếng Ngài hay trở nên bối rối bởi nhiều xung lực, ham muốn và hấp dẫn khác đang giành giật? Đó là những câu hỏi quan trọng. “Lời Chúa thì nhỏ nhẹ, không cưỡng ép. Chỉ ai có tâm hồn tĩnh lặng và biết yêu mới nghe được tiếng của Mục Tử!” - Têrêsa Avila.
Có rất nhiều tiếng nói cạnh tranh nói với chúng ta mỗi ngày. Từ những tin tức mới nhất trên các tiêu đề đến ý kiến của bạn bè và gia đình, đến những cám dỗ trong thế giới tục luỵ và cả những ý kiến tự mình đặt ra. Những “tiếng nói” hoặc “ý tưởng” đó lấp đầy tâm trí và thật không dễ để có thể phân loại. Điều gì đến từ Chúa? Điều gì đến từ các nguồn khác?
Thế nhưng, nhận ra tiếng Chúa vẫn là điều có thể. Trước hết, Thánh Kinh! Đọc Thánh Kinh, bạn sẽ ngày càng quen với tiếng Chúa. Ngài nói qua những soi dẫn ‘rất khẽ’ đưa đến bình an. Ví dụ, khi cân nhắc một quyết định, bạn trình bày với Chúa qua cầu nguyện; sau đó, cởi mở với bất cứ điều gì Ngài muốn, thường thì câu trả lời của Ngài đến dưới hình thức một sự bình an sâu sắc và chắc chắn trong lòng. “Khi ở lại trong cô tịch và thinh lặng của tâm hồn, Mục Tử sẽ gọi ta - không bằng tiếng ồn, mà bằng tình yêu!” - Charles de Foucauld.
Học cách nhận ra tiếng nói của Chúa trong cuộc sống được thực hiện bằng cách xây dựng một thói quen lắng nghe, nhận ra, đáp lại, lắng nghe nhiều hơn. Càng nghe tiếng Chúa, bạn càng nhận ra nó theo cách tinh tế nhất, và càng nghe những tinh tế của Ngài, bạn càng muốn đi theo Ngài. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua thói quen cầu nguyện sâu sắc và liên tục. Không có điều đó, sẽ rất khó để nhận ra tiếng của Mục Tử Nhân Lành Giêsu khi bạn cần Ngài nhất. “Chúa nói với linh hồn trong đêm tối, khi mọi tiếng ồn bên ngoài lắng dịu. Chỉ khi đó linh hồn mới nghe được tiếng gọi dịu dàng của Mục Tử!” - Gioan Thánh Giá.
Anh Chị em,
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Hãy suy ngẫm về việc bạn chú ý đến Chúa như thế nào trong cầu nguyện. Bạn cầu nguyện mỗi ngày làm sao? Bạn có dành thời gian để lắng nghe tiếng nói dịu dàng và tuyệt vời của Chúa? Bạn có tìm cách hình thành thói quen để tiếng Ngài ngày càng rõ hơn? Vậy nếu còn phải đấu tranh để nhận ra tiếng nói của Ngài, hôm nay, bạn hãy quyết định thiết lập một thói quen cầu nguyện sâu sắc hơn để từ đó, lắng nghe tiếng nói của Đấng yêu thương dẫn dắt bạn mỗi ngày!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ước gì cầu nguyện là hơi thở của con, nhịp tim của con; hầu khi Chúa gọi, con sẵn sàng thưa, này con đây!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Những Ấn Tượng Ban Đầu Về Một Điểm Đầu Tiên Về Giáo Hoàng
J.B. Đặng Minh An dịch
02:04 10/05/2025
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada, vừa có bài viết nhan đề “Pope Đức Lêô XIV: Initial Impressions on a Papal First”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Những Ấn Tượng Ban Đầu Về Một Điểm Đầu Tiên Về Giáo Hoàng” đăng trên tờ National Catholic Register ngày 10 tháng Năm, 2025.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Đức Hồng Y Robert Francis Prevost hiện là Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, là người Mỹ và Peru đầu tiên nắm giữ Tòa thánh Phêrô.
Không có con đường thông thường nào để trở thành một vị Giáo Hoàng người Mỹ, nhưng có một con đường để trở thành một Hồng Y người Mỹ. Đức Hồng Y Prevost đã không đi theo con đường đó.
Sinh năm 1955, ngài lớn lên tại Dolton, Illinois, giáp ranh với South Side của Chicago. Tham dự các thánh lễ tại giáo xứ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và theo học tại trường học của giáo xứ ở địa phương, trước khi theo học trung học tại chủng viện dòng Augustinô ở Holland, Michigan, rời nhà khi mới 14 tuổi. Do đó, Đức Giáo Hoàng Lêô thuộc thế hệ cuối cùng mà điều đó là bình thường (các chủng viện giảng dạy chương trình trung học đó đã đóng cửa vào năm 1977). Gia nhập Dòng Thánh Augustinô, gọi tắt là OSA, ngài theo học đại học tại Villanova ở Philadelphia và lấy bằng sau đại học tại Angelicum ở Rôma.
Kinh nghiệm mục vụ chủ yếu của ngài là một linh mục truyền giáo và giám mục ở Peru. Được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền dòng Augustinô trên toàn thế giới hai lần, ngài đã phục vụ hai nhiệm kỳ sáu năm, từ năm 2001 đến năm 2013. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vào đầu triều Giáo Hoàng của ngài, đã bổ nhiệm Cha Prevost làm giám mục của Chiclayo ở Peru vào năm 2014, nơi ngài ở lại cho đến Tháng Giêng năm 2023, khi ngài được đưa đến Rôma với tư cách là tổng trưởng Bộ Giám mục, một trong những bộ cao cấp nhất trong Giáo triều Rôma. Được phong làm Hồng Y vào tháng 9 năm 2023, ngài được bầu làm giáo hoàng chưa đầy 22 tháng sau đó.
Ấn tượng ban đầu
Chỉ có những ấn tượng vào buổi đầu, không phải là các phân tích mang tính kết luận. Người mà giáo hoàng mới sẽ là không chính xác là người mà ngài đã từng là. Là Đức Lêô thì khác với là Robert, cũng như là Phêrô thì khác với là Simon. Không thiếu những giáo hoàng đã chứng minh là hoàn toàn khác so với những gì được mong đợi — không chỉ có Đức Thánh Cha Phanxicô. Ví dụ, ngài hiếm khi trả lời phỏng vấn khi còn là tổng giám mục Buenos Aires; khi trở thành giáo hoàng, ngài đã trả lời hơn ba trăm cuộc phỏng vấn, hàng chục cuộc phỏng vấn trong số đó dài bằng một cuốn sách.
Điều đó có thể — hoàn toàn có thể - kết thúc, vì Đức Lêô XIV đã im lặng trong hai năm qua ở Rôma, không bình luận rộng rãi. Phong thái của ngài tự tin, dễ chịu và kín đáo. Tờ báo Ý Corriere della Sera, nghĩa là Tin Chiều, đã sử dụng tiêu đề “Un Papa Calmo” — một vị giáo hoàng điềm tĩnh, thanh thản. Có thể các Hồng Y mong muốn một triều Giáo Hoàng yên tĩnh hơn một chút sau triều Giáo Hoàng Phanxicô quá sôi nổi.
Nghi lễ của Giáo hoàng dường như đã trở lại
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV xuất hiện trên ban công chính của Đền Thờ Thánh Phêrô vào tối thứ năm, và cử hành Thánh lễ tại Nhà nguyện Sistina vào sáng thứ sáu theo một cách hoàn toàn không có gì bất thường. Ngài mặc những gì các giáo hoàng được cho là phải mặc và làm những gì mà các giáo hoàng được cho là phải làm. Đó là một phần của việc trở thành Phêrô hơn là Simon, Đức Lêô hơn là Robert; rất thường xuyên trong 12 năm qua, Jorge đã lui bước trước Phanxicô cho sự nổi bật.
Bài giảng đầu tiên của Đức Lêô tại Nhà nguyện Sistina — được các viên chức Vatican soạn thảo trước, nhưng phải tuân theo các sửa đổi của ngài — dựa trên kinh thánh, Công đồng Vatican II và Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, phù hợp với một tu sĩ dòng Augustinô, những người học hỏi thời kỳ giáo phụ. Các viên chức giáo triều sẽ phải điều chỉnh nếu, khi Đức Tân Giáo Hoàng đề cập đến Inhaxiô, ngài muốn nói đến vị tử đạo đầu tiên chứ không phải vị sáng lập Dòng Tên thế kỷ 16.
Ngài đã nói ngẫu hứng bằng tiếng Anh vào đầu bài giảng của mình, giống như ngài đã nói bằng tiếng Tây Ban Nha trên ban công chính vào tối hôm trước. Một vị giáo hoàng thường xuyên nói tiếng Ý, ngôn ngữ của Rôma, tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ đa số trong số những người Công Giáo, và tiếng Anh, ngôn ngữ toàn cầu, sẽ có một lợi thế lớn.
Và Đức Lêô có thể là người có giọng hát giáo hoàng hay nhất kể từ những năm đầu của Thánh Gioan Phaolô II
Con Sư Tử Thứ 14
Quyết định đầu tiên mà một giáo hoàng mới đưa ra sau khi chấp nhận cuộc bầu cử là lựa chọn danh hiệu; Lêô có nghĩa là “sư tử” trong tiếng Latin và tiếng Ý.
Sự lựa chọn tên này là khoảnh khắc áp lực tinh thần dữ dội với ít thời gian để suy ngẫm, do đó những cái tên thánh thiện như Bênêđíctô, Innôcentê, Piô và Clêmentê rất phổ biến. Hai vị giáo hoàng giáo phụ được gọi là “Cả” là Đức Lêô Cả, cai quản Giáo Hội từ năm 440 đến 461, và Grêgôriô, cai quản Giáo Hội từ năm 590 đến 601, đó là lý do tại sao có rất nhiều vị Giáo Hoàng chọn danh hiệu Lêô và Grêgôriô.
Đức Lêô XIV vẫn chưa giải thích lý do tại sao ngài chọn cái tên đó, vì vậy chúng ta chỉ có thể suy đoán. Điều đáng chú ý là sau những vị giáo hoàng gần đây có sự đổi mới trong danh hiệu của các ngài (cả Đức Gioan Phaolô và Đức Phanxicô), Đức Hồng Y Prevost đã chọn một danh hiệu có tính chất truyền thống hơn.
Phản ứng ban đầu của tôi là hai tiền lệ có liên quan là tiền lệ đầu tiên, Đức Lêô Cả, và tiền lệ cuối cùng, Đức Lêô XIII, cai quản Giáo Hội từ năm 1878-1903. Peggy Noonan đã viết, theo cùng một hướng đó, rằng “Hai vị Giáo Hoàng Lêô quan trọng là Đức Lêô Cả và Đức Lêô thứ XIII.”
Mặc dù những tiền lệ đó có khả năng dẫn đến sự lựa chọn của ngài, nhưng chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn. Có những vị Giáo Hoàng Lêô khác chắc chắn không phải là lý do cho sự lựa chọn của Đức Hồng Y Prevost.
Đức Lêô X, cai quản Giáo Hội từ năm 1513 đến năm 1521, trị vì khi Luther đóng đinh 95 luận đề của mình vào cửa năm 1517, một phần là do Đức Lêô thực hành việc mua bán ân xá. Vị Giáo hoàng tiếp theo cùng tên, Đức Lêô XI, qua đời chỉ sau 27 ngày tại vị, một triều đại ngắn hơn vào năm 1605 so với triều đại 33 ngày của Chân phước Gioan Phaolô I vào năm 1978. Đức Lêô XII, cai quản Giáo Hội từ năm 1823 đến năm 1829, cai trị sau khi Napoleon phá vỡ trật tự Âu Châu và quấy rối giáo hoàng; Đức Lêô XII đã thực hiện một đường lối lạc hậu không thể được đề xuất làm mô hình ngày nay.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
Đức Lêô XIII lên ngôi giáo hoàng ở tuổi 68 và trị vì cho đến năm 93 tuổi, ngài là người lớn tuổi nhất từng giữ chức vụ này và là giáo hoàng tại vị lâu thứ tư, sau Thánh Phêrô, Chân phước Piô IX, là vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài, và Đức Gioan Phaolô II.
Là cha đẻ của giáo lý xã hội Công Giáo hiện đại, Đức Lêô XIII ngay lập tức được nhắc đến sau khi Đức Lêô XIV được bầu. Các phương tiện truyền thông nhấn mạnh rằng Đức Lêô XIII là nhà vô địch của người nghèo, của người lao động, thậm chí của nền kinh tế phân phối lại. Tuy nhiên, Đức Lêô XIII còn nổi bật hơn thế nhiều. Thành tựu đáng chú ý của ngài là nhận ra rằng thế giới Công Giáo Tridentinô, nghi ngờ và thậm chí thù địch với tính hiện đại, cần phải tiến tới tham gia vào các lĩnh vực văn hóa, chính trị và kinh tế. Ngài thông minh, sáng tạo và tự do — nhưng không phải theo cách mà những thuật ngữ đó được sử dụng ngày nay. Phân tích của ngài về hiện đại là cân bằng và cẩn thận, tránh cực đoan trong khi nhấn mạnh vào không gian cho Phúc âm.
Mặc dù sẽ có nhiều bài viết về Đức Lêô XIII — đã là một lợi ích của triều Giáo Hoàng mới! — một vài điểm ban đầu đáng chú ý ngày nay. Trước khi Đức Lêô viết thông điệp Rerum Novarum hay Tân Sự vào năm 1891 — là một hiến chương vĩ đại về giáo huấn xã hội Công Giáo — ngài đã viết Libertas vào năm 1888, bảo vệ tự do là “tài sản tự nhiên vĩ đại nhất”.
Ngài là một giáo hoàng của tự do, và đã viết thông điệp Tân Sự chính xác là để chống lại những thế lực kinh tế đang làm xói mòn chứ không phải mở rộng quyền tự do của người lao động. Ngài đã lên án dữ dội chủ nghĩa cộng sản trước khi nó được thực hiện ở bất cứ đâu.
Đức Lêô XIII cũng viết chống lại “chủ nghĩa Mỹ”, lên án khuynh hướng ở Hoa Kỳ hạ thấp đức tin xuống dưới nền văn hóa địa phương. Điều đó vẫn còn liên quan đến ngày nay, nơi mà — như Đức Hồng Y Prevost đã gặp ở Peru — câu hỏi về sự hội nhập văn hóa vẫn còn tồn tại.
Đức Hồng Y Francis George và Một Giáo Hoàng Người Mỹ
Với cuộc bầu cử của mình, Đức Lêô XIV ngay lập tức làm lu mờ tất cả các Hồng Y trước đó từ Chicago. Người vĩ đại nhất trong số họ, Đức Hồng Y Francis George, đã được nhiều người nghĩ đến gần đây, do kỷ niệm mười năm ngày mất của ngài vào tháng trước, và sự hiện diện tại Rôma của người được ngài bảo trợ, Giám mục Robert Barron, đưa ra bình luận trên phương tiện truyền thông những ngày cuối cùng này với những kỷ niệm về người thầy của mình.
Là một sinh viên say mê nghiên cứu văn hóa Mỹ và lịch sử Giáo hội, Đức Hồng Y George nói với Đức Cha Barron rằng, “cho đến khi nước Mỹ suy thoái về mặt chính trị, sẽ không có một vị giáo hoàng người Mỹ nào cả.” Rất có thể là Hồng Y Đoàn, được tuyển chọn từ mọi nơi trên thế giới, đã kết luận rằng điều đó có thể đã xảy ra. Điều đó cũng vẫn còn phải chờ xem.
Đức Hồng Y George đã rất nghiêm khắc với những người Công Giáo Mỹ đồng hương của mình, bình luận rằng dù được rửa tội là người Công Giáo, họ đã chọn quan điểm Tin lành. Không biết liệu vị giáo hoàng người Mỹ đầu tiên có làm theo người đồng hương Chicago của mình trong việc đưa ra những đánh giá lạnh lùng hay không, nhưng chưa bao giờ có một vị giáo hoàng nào hiểu rõ Hoa Kỳ từ bên trong.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã ám chỉ đến phân tích này trong bài giảng tại Nhà nguyện Sistina, không phải nói về Hoa Kỳ mà là về tình hình toàn cầu.
“Ngay cả ngày nay, vẫn có nhiều bối cảnh mà đức tin Kitô bị coi là vô lý, dành cho những người yếu đuối và không thông minh. Những bối cảnh mà các bảo đảm khác được ưa chuộng, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc thú vui. Đây là những bối cảnh mà không dễ để rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho chân lý của Tin Mừng, nơi những người tin bị chế giễu, chống đối, khinh miệt hoặc tốt nhất là được dung thứ và thương hại,” Đức Tân Giáo Hoàng đã giảng.
“Điều này không chỉ đúng với những người không tin mà còn đúng với nhiều Kitô hữu đã chịu phép rửa tội, những người cuối cùng sống ở mức độ này trong tình trạng vô thần thực tiễn.”
Trong tờ The Wall Street Journal, tôi đã viết về Đức Hồng Y George, người mà hai mươi năm trước, khi bầu Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, đã đứng trên ban công của Nhà thờ Thánh Phêrô nhìn bằng con mắt lịch sử vào thành Rôma đế quốc, đã đổ nát từ lâu. Tuy nhiên, Giáo hội vừa bầu ra người kế nhiệm Thánh Phêrô, là vị Tông đồ mà người Rôma đã xử tử trên đồi Vatican.
Vào năm 1586, Đức Giáo Hoàng Sixtô Đệ Ngũ đã di chuyển một trong những tàn tích đó, một tháp đài nặng 350 tấn đến trung tâm Quảng trường Thánh Phêrô, nơi nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đó sẽ là cột mốc cuối cùng mà Thánh Phêrô nhìn thấy sau khi bị đóng đinh, và là cột mốc đầu tiên mà một giáo hoàng mới nhìn thấy sau khi được bầu.
Trên đỉnh của tháp đài đó là một cây thánh giá bằng đồng, và đặt bên trong đó là thánh tích của Thánh giá thật. Lễ tôn vinh Thánh giá rơi vào ngày 14 tháng 9.
Đó là sinh nhật của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV.
Phêrô lại nhìn lên Thánh giá ở Rôma một lần nữa.
Source:National Catholic Register
Đức Giáo Hoàng Leo và nước Nga
Vũ Văn An
15:19 10/05/2025

Stefano Caprio của AsiaNews, ngày 10/05/2025, nhận định rằng: Robert Prevost chưa bao giờ có quan hệ trực tiếp với Moscow, nhưng cái tên mà ngài chọn gợi lên những mối quan hệ rất quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa Đông và Tây trong Giáo hội cổ đại và hiện đại, từ Đức Leo Cả đến Leo XIII, vị giáo hoàng của Rerum Novarum, người được truyền cảm hứng từ tác giả vĩ đại người Nga Vladimir Solovyov.
Đức Hồng Y Robert Francis Prevost, sinh năm 1955 tại Chicago, đã trở thành giáo hoàng mới, Leo XIV, thu hút sự chú ý của toàn thế giới và làm lu mờ lễ kỷ niệm Chiến thắng tại Quảng trường Đỏ của Moscow, đánh dấu kỷ niệm 80 năm kết thúc Thế chiến II.
Việc ngài được bầu làm giáo hoàng đã khiến cả thế giới ngạc nhiên, vì ngài không được nhắc đến trong số những ứng viên hàng đầu của Hồng Y đoàn, và đã chọn một cái tên chưa từng được sử dụng trong hơn một thế kỷ, mặc dù đây là một trong những danh hiệu giáo hoàng vinh quang nhất trong lịch sử.
Đức Giáo Hoàng Leo XIV chưa bao giờ có quan hệ trực tiếp với Nga, ngài đã dành nhiều năm trong sứ mệnh linh mục và giám mục của mình ở Peru và Hoa Kỳ, trước khi đến Vatican để phục vụ với tư cách là bộ trưởng Bộ Giám mục, một trong những cơ quan quan trọng và nhạy cảm nhất của Tòa thánh.
Tuy nhiên, cái tên mà ngài chọn gợi lên những mối quan hệ rất quan trọng trong lịch sử tương tác giữa Đông và Tây trong Giáo hội cổ đại và hiện đại, và không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều giáo hoàng đã chọn danh hiệu này, để tưởng nhớ đến Đức Leo Cả vĩ đại, người vào giữa thế kỷ thứ năm đã có thể ngăn chặn các cuộc xâm lược của những kẻ man rợ ở Đế quốc La Mã phương Tây, một nhà tiên tri của nền hòa bình vẫn được mong đợi cho đến ngày nay ở các quốc gia châu Âu và thế giới.
Việc nhắc đến Đức Giáo Hoàng Leo đầu tiên, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Giáo hội trong thời kỳ rất hỗn loạn, chắc chắn là dấu hiệu đầu tiên cho thấy triều đại của giáo hoàng mới, Robert Prevost, phản ánh nỗ lực hòa giải các dân tộc ở các vĩ độ khác nhau như vào cuối thế giới cổ đại, ngay trước khi bắt đầu thời Trung cổ.
Đức Leo Cả đã viết thư cho tất cả những người vĩ đại trong thế kỷ của mình để tìm ra cách thức hòa bình không chỉ trong các cuộc xung đột vũ trang và xung đột giữa các nền văn minh, mà còn trong các cuộc tranh chấp tôn giáo về các công thức của đức tin, đặc biệt là trong Tomus ad Flavianum của ngài, bức thư gửi cho thượng phụ Constantinople, người đã rút phép thông công những người theo thuyết dị giáo nhất tính (Monophysite), những người không tin vào bản chất con người của Chúa Giêsu Kitô.
Văn bản của giáo hoàng đã tìm được tiếng nói chung phù hợp giữa các học thuyết giáo điều đối lập, cũng liên quan đến hoàng đế Theodosius II, đến mức nó định hình nên kết luận của Công đồng Chalcedon năm 451, công đồng đã áp đặt thuật ngữ "chính thống" cho những người chấp nhận định nghĩa về đức tin là sự kết hợp giữa bản chất con người và bản chất thần linh của Chúa Kitô.
Vào thời điểm đó, Kinh Tin Kính trong văn bản Nicea-Constantinopolitan đã được chấp thuận một cách dứt khoát. Được cả người Công Giáo và Chính thống giáo công nhận (bất chấp câu hỏi của Byzantine về Filioque), nó hợp nhất các biến thể của thần học Kitô giáo ở Alexandria và Antioch, sự phân cực cổ xưa của phương Tây Hy Lạp hóa (sau này trở thành phương Đông Chính thống giáo) và phương Đông Syriac (sau đó phát triển chủ yếu ở phương Tây Latinh).
Đức Leo XIV cũng muốn hòa giải các tâm hồn khác nhau của Kitô giáo cổ đại và hiện đại, trong đó các vĩ độ được trao đổi và các ảnh hưởng được đan xen trong lời tuyên xưng của một đức tin.
Mục tiêu này là một phần trong sứ mệnh lịch sử của các vị giáo hoàng, chẳng hạn như Đức Leo II, người đã xác nhận đức tin Công Giáo và Chính thống giáo tại Công đồng Constantinople lần thứ ba năm 680, Đức Leo III, người đã trao vương miện cho Charlemagne làm hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh, Đức Leo IV, người đã củng cố Rome bằng cách xây dựng các Bức tường Leonine để bảo vệ thành phố khỏi người Saracen, Đức Leo IX, người đã cố gắng thống nhất Rome và Byzantium, vốn đã bị chia rẽ vào năm 1054 giữa Chính thống giáo và Công Giáo, vài ngày sau khi ngài qua đời.
Một trong những giáo hoàng nổi tiếng nhất là Đức Leo X, Giovanni di Lorenzo de' Medici, được nhớ đến vì sự bảo trợ của ngài cho nghệ thuật và những cuộc tranh cãi với Martin Luther. Và cuối cùng, chúng ta có Đức Leo XIII, vị giáo hoàng cuối cùng trong lịch sử có tên này, bị giới hạn trong Vatican sau khi Rome bị chiếm đóng vào năm 1870, được biết đến với thông điệp Rerum Novarum đề cập đến vấn đề xã hội và quyền của người lao động, một trong những vị giáo hoàng có thời gian trị vì dài nhất (1878-1903), mà người kế nhiệm và người Mỹ cùng tên của ngài có thể lặp lại vì ngài là giáo hoàng "trẻ nhất" kể từ Đức Gioan Phaolô II.
Do đó, gợi ý đầu tiên được đưa ra bởi danh hiệu giáo hoàng liên quan đến chính khái niệm "chính thống", có từ thời mà đức tin chân chính gắn liền với tính phổ quát của Giáo hội "Công Giáo".
Theo giáo lý của các công đồng đầu tiên, trong đó Đức Leo Cả là giáo hoàng duy nhất có ảnh hưởng quyết định, người ta không thể thực sự chính thống nếu không đồng thời là người Công Giáo đích thực, tuyên xưng đức tin thống nhất và phổ quát, bất chấp những cuộc tranh luận mang tính công cụ sau đó về các chi tiết của các công thức khác nhau.
Trên cơ sở này, Đức Giáo Hoàng Leo XIV có thể được kỳ vọng sẽ duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với Tòa Thượng Phụ Moscow và nước Nga của Putin. Nhà lãnh đạo Nga đã chúc mừng Đức Tân Giáo hoàng về cuộc bầu cử của ngài bằng cách tuyên bố rằng ông "tin tưởng rằng cuộc đối thoại và tương tác mang tính xây dựng được thiết lập giữa Nga và Vatican sẽ tiếp tục phát triển trên cơ sở các giá trị Kitô giáo vốn đoàn kết chúng ta".
Nguồn cảm hứng gần đây nhất, có lẽ là nguồn cảm hứng quyết định cho việc lựa chọn tên, đến từ Đức Giáo Hoàng Leo XIII (tên khai sinh là Gioacchino Pecci), người đã đối diện với những thách thức của thời hiện đại bằng cách chủ trương rằng các nhiệm vụ của Giáo hội cũng bao gồm hoạt động mục vụ trong lĩnh vực chính trị xã hội.
Đức Leo XIII được nhớ đến như là "giáo hoàng của các thông điệp", tổng cộng với 86 thông điệp, được viết với mục đích vượt qua sự cô lập mà Tòa thánh đã gặp phải sau khi mất quyền lực thế tục với sự thống nhất của Ý.
Vị Giáo hoàng người Mỹ khó có thể sung mãn về mặt văn bản chính thức, một phần vì chúng ta đang sống trong thời đại giao tiếp liên tục được cô đọng thành những lời nói ngắn gọn trên phương tiện truyền thông xã hội, mà Hồng Y Prevost cho biết "hãy sử dụng một cách thận trọng", để suy nghĩ kỹ trước khi đăng những bài viết thiếu suy nghĩ, giống như những bài viết của tổng thống (và giáo hoàng giả) của ông ở Washington.
Pecci cũng là "vị giáo hoàng của công nhân" hoặc "giáo hoàng xã hội", trên hết là nhờ Rerum Novarum, đã khơi dậy những suy gẫm về học thuyết xã hội của Giáo hội, một văn bản thu hút rất nhiều sự chú ý của người Nga.
Thượng phụ hiện tại của Moscow, Kirill (Gundyaev), đã xây dựng một quan niệm chính thống về học thuyết xã hội vào cuối những năm 1990, mời những người Công Giáo hiện diện ở Nga hợp tác bằng cách so sánh các thông điệp từ Leo XIII đến Gioan Phaolô II và các tài liệu tuyệt vời của thế kỷ XX về cam kết của Giáo hội đối với các mối quan hệ chính trị và xã hội.
Tại hội nghị thượng đỉnh Nga về năm thánh 2000, cũng đánh dấu sự khởi đầu nhiệm kỳ tổng thống của Vladimir Putin, Kirill đã phê duyệt tài liệu này chỉ ra các hướng dẫn cho sự phát triển mới của nước Nga theo chủ nghĩa có chủ quyền, đưa vào các điểm chính của "bảo vệ các giá trị truyền thống" chống lại bất cứ sự can thiệp bên ngoài nào, trong một hệ thống nội dung rất giống với giáo lý Công Giáo.
Đức Leo XIII đã viết thông điệp xã hội vào năm 1891, và một trong những nguồn cảm hứng của nó là một tác giả người Nga, triết gia vĩ đại Vladimir Solovyov, người hai năm trước đó đã lưu hành khắp châu Âu một văn bản trong đó ông đề xuất một tầm nhìn mới về thế giới, nước Nga và Giáo hội hoàn vũ, đề xuất tái khám phá ý nghĩa ban đầu của truyền thống Kitô giáo, trên hết là sự thống nhất ban đầu của Chính thống giáo và Công Giáo, vượt qua các chia rẽ lịch sử, dưới sự hướng dẫn về mặt thế tục của sa hoàng và thẩm quyền tinh thần của giáo hoàng.
Một trong những người ngưỡng mộ ông là Hồng Y Josip Strossmayer có ảnh hưởng của Zagreb, người đã đệ trình văn bản lên Giáo hoàng cùng với một lá thư từ chính Solovyov, hỏi liệu ông có sẵn sàng thực hiện một dự án không tưởng như vậy không, mà ông gọi là "thần quyền tự do" và theo ý kiến của ông, dự án này cấu thành "sứ mệnh đặc biệt" của nước Nga tôn giáo và quân chủ, nhưng cần có quyền tối cao của Phêrô và sự bất khả ngộ của giáo hoàng, mà giáo điều của nó đã được công bố gần đây. Đức Leo XIII trả lời rằng đó là một "ý tưởng tuyệt vời, nhưng không thể thực hiện được ngoại trừ một phép lạ".
Tuy nhiên, khi soạn thảo thông điệp, người ta có thể cảm nhận được một số ảnh hưởng nhất định từ những ý tưởng của Solovyov về "con đường thứ ba" giữa các hệ tư tưởng xã hội lớn của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội, giữa Đông và Tây theo một cách nhất định, vốn đã đối đầu với nhau ở Nga trong một thế kỷ, khiến "những người theo chủ nghĩa Slav" chống lại "những người theo chủ nghĩa phương Tây".
Trong Rerum Novarum, khái niệm "con đường thứ ba" được nhấn mạnh một cách hữu hiệu, trong nỗ lực làm trung gian giữa định hướng xã hội chủ nghĩa-cách mạng và chủ nghĩa tự do tư bản kinh tế, một sự phản ảnh được tiếp thu và đào sâu trong các thông điệp của các giáo hoàng sau này, như Quadragesimo Anno (1931) của Đức Piô XI, Mater et Magistra (1961) của Đức Gioan XXIII, Populorum Progressio (1967) của Phaolô VI và Centesimus Annus (1991) của Đức Gioan Phaolô II, vào cuối thời kỳ Xô Viết.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô - người mà huấn quyền của ngài được Đức Leo XIV hứa sẽ tiếp tục và có mối quan hệ rất thân thiết kể từ thời điểm truyền giáo ở Peru, cùng với tổng giám mục Buenos Aires khi đó - đã nhắc lại học thuyết xã hội của Giáo hội trong thông điệp Fratelli Tutti (2020), chính là yêu cầu những người bị chia rẽ bởi các vấn đề của con người hãy công nhận nhau là anh chị em vì họ là con của một Đấng Tạo Hóa, cần phải nhận thức rằng trong một thế giới toàn cầu hóa và kết nối với nhau, chúng ta chỉ có thể tự cứu mình cùng nhau.
Vị Giáo hoàng người Argentina cũng lấy cảm hứng từ văn kiện về tình anh em giữa con người, được ký kết với Đại Imam của Al-Azhar Ahmed el-Tayeb vào năm 2019, và giờ đây, vị Giáo hoàng người Mỹ-Peru phải tiếp nối những nguồn cảm hứng vĩ đại này, cả xưa lẫn nay, để cùng nhau xây dựng hòa bình với những con người đang trong chiến tranh, các tín ngưỡng Kitô giáo và các tôn giáo trên thế giới.
Đây là nhiệm vụ cụ thể của vị giám mục hoàn vũ, “người xây cầu”, mà Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã gợi lên khi, từ ban công của Nhà thờ Thánh Phêrô trước đám đông khổng lồ của mọi dân tộc và quốc gia, ngài mong chúc: “Bình an cho anh chị em!” “Thiên Chúa yêu thương tất cả anh chị em!”
Thánh Ca
Trường Ca Mẹ Ơi
Phạm Trung
15:22 10/05/2025