Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:52 08/05/2025
120. Trong việc nhỏ nếu không xuất chúng hơn người, thì trong việc lớn cũng sẽ không xuất chúng hơn người.
(Thánh Salvius)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
--------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:54 08/05/2025
36. CHỬI NGƯỜI ĐÁNH RẮM
Một đám bạn bè ngồi lại với nhau, đột nhiên có người đánh rắm, không biết là ai, mọi người đều hoài nghi một người nọ, bèn cùng nhau chửi anh ta.
Thực ra người ấy không đánh rắm nhưng cũng không thèm cải lại, mà chỉ cười ha ha.
Mọi người hỏi:
- “Có gì đáng cười?”
Trả lời:
- “Tôi cười là cười người đánh rắm cũng hùa với mọi người để chửi tôi.”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 36:
Ở đời, con người ta thường mắc bệnh “hùa”: hùa với nhau để hạ bệ anh em, hùa với nhau để chế nhạo người khác, hùa với nhau để đấu đá tranh giành quyền lực, hùa với nhau để hại người…
Có hai lý do để người ta hùa với nhau: một là quyền lợi cá nhân, bởi vì không ai dại gì bán rẽ lương tâm khi không có lợi cho mình và hai là để che giấu cái xấu xa tội lỗi của mình, bởi vì không ai ngu gì nói cái xấu của mình ra khi người khác không biết.
Những người hiền lành ít nói, những người nghèo khổ và cô thế cô thân, những người ngay thẳng thường bị kẻ khác hùa lại với nhau để làm hại và chế giễu, bởi vì họ là những người sống thật thà không muốn tranh chấp với người khác.
Người Ki-tô hữu của mọi thời đại đều bị vua chúa quan quyền cho đến người dân hùa lại với nhau để chế nhạo, bách hại vu khống và để diệt trừ, bởi vì cuộc sống bác ái yêu người và phục vụ tha nhân của người Ki-tô hữu, đã là bằng chứng hùng hồn tố cáo những ai sống sa đọa vô luân, sống tàn ác, sống bất công với mọi người…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Một đám bạn bè ngồi lại với nhau, đột nhiên có người đánh rắm, không biết là ai, mọi người đều hoài nghi một người nọ, bèn cùng nhau chửi anh ta.
Thực ra người ấy không đánh rắm nhưng cũng không thèm cải lại, mà chỉ cười ha ha.
Mọi người hỏi:
- “Có gì đáng cười?”
Trả lời:
- “Tôi cười là cười người đánh rắm cũng hùa với mọi người để chửi tôi.”
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 36:
Ở đời, con người ta thường mắc bệnh “hùa”: hùa với nhau để hạ bệ anh em, hùa với nhau để chế nhạo người khác, hùa với nhau để đấu đá tranh giành quyền lực, hùa với nhau để hại người…
Có hai lý do để người ta hùa với nhau: một là quyền lợi cá nhân, bởi vì không ai dại gì bán rẽ lương tâm khi không có lợi cho mình và hai là để che giấu cái xấu xa tội lỗi của mình, bởi vì không ai ngu gì nói cái xấu của mình ra khi người khác không biết.
Những người hiền lành ít nói, những người nghèo khổ và cô thế cô thân, những người ngay thẳng thường bị kẻ khác hùa lại với nhau để làm hại và chế giễu, bởi vì họ là những người sống thật thà không muốn tranh chấp với người khác.
Người Ki-tô hữu của mọi thời đại đều bị vua chúa quan quyền cho đến người dân hùa lại với nhau để chế nhạo, bách hại vu khống và để diệt trừ, bởi vì cuộc sống bác ái yêu người và phục vụ tha nhân của người Ki-tô hữu, đã là bằng chứng hùng hồn tố cáo những ai sống sa đọa vô luân, sống tàn ác, sống bất công với mọi người…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Ngày 09/05: Ý nghĩa Mình Máu Thánh Chúa – Lm. Giuse Đỗ Tuấn Anh, CSsR.
Giáo Hội Năm Châu
04:03 08/05/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, người Do-thái tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
Đó là lời Chúa
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại hội Mơ Cùng Thánh Giuse 2025_Cđ St Joseph Fremont
Thái Phạm
03:20 08/05/2025
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt Chiếc nhẫn ngư phủ - Anulus piscatoris
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
02:37 08/05/2025
Khuôn mặt Chiếc nhẫn ngư phủ - Anulus piscatoris
Sau khi Đức giáo hoàng Phanxicô, ngày 21.04.2025 qua đời, Vị nhiếp chính ( Camerlengo) Hồng y Kevin Farrell tháo chiếc nhẫn ngư phủ -Anulus piscatoris- khỏi tay vị Giáo hoàng qua đời Phanxicô, và đem hủy bỏ công khai theo quy định của giáo triều Roma.
Việc hủy bỏ chiếc nhẫn ngư phủ của vị giáo hoàng qua đời nói lên biểu tượng triều đại giáo hoàng của ngài đã kết thúc, quyền bính của ngài không còn hiệu lực nữa, cùng để tránh trường hợp lạm dụng dùng chiếc nhẫn ngư phủ của vị giáo hoàng đã qua đời giả mạo gây rối phá họai Giáo hội! Và động thái này cũng là phần công bố Tòa Thánh Roma bước vào thời kỳ trống tòa- Sedis vacantia- Đức giáo Hoàng qua đời Chiếc ghế tòa thánh Roma trở nên trống.
Vậy đâu là ý nghĩa của chiếc nhẫn ngư phủ?
Trong Giáo Hội Công giáo, mọi vị Giám mục, cả những Viện Phụ, từ ngày được tấn phong, luôn đeo nơi ngón tay chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn Giám mục nói lên sự trung thành của vị Giám mục với Giáo hội là hiền thê của Chúa.
Riêng chiếc nhẫn của Đức giáo Hoàng, cũng là vị Giám mục Roma, được gọi là chiếc nhẫn ngư phủ - anulus piscatoris.
Chiếc nhẫn ngư phủ từ thế kỷ 14. trở thành chiếc nhẫn chính thức của Đức giáo hoàng Roma. Trên mặt chiếc nhẫn bên cạnh tên Đức giáo hoàng còn có hình Thánh Phero đang bên khoang thuyền kéo lưới. Hình ảnh này có căn nguyên trong Kinh thánh tường thuật Thánh Phero và Thánh Anre được Chúa Giêsu kêu gọi đang lúc hai Ông thả lưới đánh bắt cá ở bờ hồ Galile:“ Anh em hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. „ Mc 1,17.
Chiếc nhẫn ngư phủ từ 1843 trở thành con Triện - con dấu - để xác nhận những văn kiện chính thức của tòa thánh Vatican.
Chiếc nhẫn ngư phủ được long trọng trao cho vị tân giáo hoàng ngày lễ đăng quang khai mạc sứ vụ mục tử của ngài cùng với dải khăn Pallium.
Chiếc nhẫn ngư phủ bị phá hủy không còn gía trị để dùng, khi vị Giáo hoàng qua đời, hay như trong trường hợp đã xảy ra việc Đức giáo hoàng Benedicto XVI. từ nhiệm lui về nghỉ hưu từ ngày 28.02.2013.
Trên lý thuyết chiếc nhẫn ngư phủ khi bị hủy, sẽ được cắt thành những miếng nhỏ tương đương với số những vị Hồng Y trong thời kỳ tòa thánh trống ngôi không có Gíao hoàng. Và những hạt đá của chiếc nhẫn đã bị phá hủy rồi lại sẽ được đem đúc vào chiếc nhẫn ngư phủ mới cho vị tân giáo hoàng kế vị được bầu chọn lên sau đó.
Theo truyền thống xưa nay trong Giáo hội, mọi tín hữu Chúa Kito tỏ lòng kính trọng uy quyền chức vị, đều qùy bái gối hôn kính chiếc nhẫn ngư phủ khi đến trước Đức giáo hoàng, là người kế vị Thánh Phero, đã được Chúa Giêsu trao quyền Giáo hoàng tiên khởi trong Giáo hội Chúa ở trần gian.
Ngày 24.04.2005 khi cử hành thánh lễ đại trào khai mạc sứ vụ mục tử Phero của mình, Đức giáo hoàng Benedicto XVI. đã có suy niệm về chiếc nhẫn ngư phủ:
„Biểu tượng thứ hai được dùng đến trong phụng vụ của ngày hôm nay để diễn tả việc khai mạc Thừa Tác Vụ Phêrô là việc trao chiếc nhẫn ngư phủ.
Lời mời gọi Phêrô trở nên mục tử mà chúng ta đã nghe trong Phúc Âm, xảy ra sau trình thuật về phép lạ bắt được một mẻ cá lớn, sau một đêm các môn đệ thả lưới không thành công, các vị thấy Chúa Phục Sinh trên bờ hồ. Ngài bảo họ hãy thả lưới thêm lần nữa, và lưới đã nặng trĩu khiến các môn đệ phải khó khăn mới kéo lên được; 153 con cá lớn, "và mặc dầu rất nhiều cá, lưới vẫn không bị rách." (x. Ga 21, 11).
Trình thuật này, xảy ra vào cuối cuộc hành trình tại thế của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài, tương ứng với trình thuật thấy được lúc khởi đầu, cả lần đó, các môn đệ cũng chẳng đánh bắt được gì suốt đêm, và cũng lần đó, Chúa Giêsu đã bảo ông Simon hãy thả lưới chỗ sâu một lần nữa. Và Simon, người lúc đó chưa được gọi là Phêrô, đã đưa ra một lời đáp trả tuyệt vời: "Thưa Thầy, nghe lời Thầy, con sẽ thả lưới." Và tiếp đến là việc trao sứ vụ cho ông: "Đừng sợ. Từ nay trở đi, con sẽ đi chài lưới người." (x Lc 5,1-11).“
Ngày nay, Giáo Hội và những Vị kế nhiệm các Thánh Tông Đồ cũng được mời gọi hãy ra khơi tận bể sâu của lịch sử và thả lưới, để giành lấy những người nam nữ cho Phúc Âm, cho Chúa Kitô, cho sự sống thật. Các Nghị Phụ đã đưa ra một lời bình luận rất có ý nghĩa về sứ vụ nổi bật này.
Các ngài nói rằng: thật là tai họa khi đem một con cá, được tạo dựng cho biển, ra khỏi bể khơi, khỏi các yếu tố thiết yếu của nó để làm thức ăn cho nhân loại. Nhưng sứ vụ của người ngư phủ lưới người, có ý nghĩa ngược lại.
Chúng ta hiện đang sống trong sự tha hóa, trong vùng nước mặn của sự khổ đau và chết chóc, trong biển sâu tăm tối không chút ánh sáng. Lưới Phúc Âm cứu vớt chúng ta ra khỏi những dòng nước chết, và đem chúng ta vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa, vào sự sống thật.“ (Vatican ngày 24.04.2005).
Chiếc nhẫn ngư phủ, biểu tượng dấu chỉ tước vị quyền bính của Đức Giáo Hoàng, mà các Vị Giáo hoàng mang trong suốt triều đại giáo hoàng bị phá hủy theo luật Giáo hội ấn định, khi các ngài qua đời. Nhưng ơn kêu gọi là mục tử người dấn thân theo chân Chúa vẫn hằng là tấm gương tinh thần sống động trong lịch sử Hội Thánh Chúa ở trần gian, cho dù các Vị đã băng hà, thể lý không còn hiện diện trên trần gian trong Giáo hội nữa.
Các Ngài trước sau vẫn là Linh mục, là Giám mục đời đời của Chúa Giêsu Kito trên quê trời bên nước Thiên Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sau khi Đức giáo hoàng Phanxicô, ngày 21.04.2025 qua đời, Vị nhiếp chính ( Camerlengo) Hồng y Kevin Farrell tháo chiếc nhẫn ngư phủ -Anulus piscatoris- khỏi tay vị Giáo hoàng qua đời Phanxicô, và đem hủy bỏ công khai theo quy định của giáo triều Roma.
Việc hủy bỏ chiếc nhẫn ngư phủ của vị giáo hoàng qua đời nói lên biểu tượng triều đại giáo hoàng của ngài đã kết thúc, quyền bính của ngài không còn hiệu lực nữa, cùng để tránh trường hợp lạm dụng dùng chiếc nhẫn ngư phủ của vị giáo hoàng đã qua đời giả mạo gây rối phá họai Giáo hội! Và động thái này cũng là phần công bố Tòa Thánh Roma bước vào thời kỳ trống tòa- Sedis vacantia- Đức giáo Hoàng qua đời Chiếc ghế tòa thánh Roma trở nên trống.
Vậy đâu là ý nghĩa của chiếc nhẫn ngư phủ?
Trong Giáo Hội Công giáo, mọi vị Giám mục, cả những Viện Phụ, từ ngày được tấn phong, luôn đeo nơi ngón tay chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn Giám mục nói lên sự trung thành của vị Giám mục với Giáo hội là hiền thê của Chúa.
Riêng chiếc nhẫn của Đức giáo Hoàng, cũng là vị Giám mục Roma, được gọi là chiếc nhẫn ngư phủ - anulus piscatoris.
Chiếc nhẫn ngư phủ từ thế kỷ 14. trở thành chiếc nhẫn chính thức của Đức giáo hoàng Roma. Trên mặt chiếc nhẫn bên cạnh tên Đức giáo hoàng còn có hình Thánh Phero đang bên khoang thuyền kéo lưới. Hình ảnh này có căn nguyên trong Kinh thánh tường thuật Thánh Phero và Thánh Anre được Chúa Giêsu kêu gọi đang lúc hai Ông thả lưới đánh bắt cá ở bờ hồ Galile:“ Anh em hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. „ Mc 1,17.
Chiếc nhẫn ngư phủ từ 1843 trở thành con Triện - con dấu - để xác nhận những văn kiện chính thức của tòa thánh Vatican.
Chiếc nhẫn ngư phủ được long trọng trao cho vị tân giáo hoàng ngày lễ đăng quang khai mạc sứ vụ mục tử của ngài cùng với dải khăn Pallium.
Chiếc nhẫn ngư phủ bị phá hủy không còn gía trị để dùng, khi vị Giáo hoàng qua đời, hay như trong trường hợp đã xảy ra việc Đức giáo hoàng Benedicto XVI. từ nhiệm lui về nghỉ hưu từ ngày 28.02.2013.
Trên lý thuyết chiếc nhẫn ngư phủ khi bị hủy, sẽ được cắt thành những miếng nhỏ tương đương với số những vị Hồng Y trong thời kỳ tòa thánh trống ngôi không có Gíao hoàng. Và những hạt đá của chiếc nhẫn đã bị phá hủy rồi lại sẽ được đem đúc vào chiếc nhẫn ngư phủ mới cho vị tân giáo hoàng kế vị được bầu chọn lên sau đó.
Theo truyền thống xưa nay trong Giáo hội, mọi tín hữu Chúa Kito tỏ lòng kính trọng uy quyền chức vị, đều qùy bái gối hôn kính chiếc nhẫn ngư phủ khi đến trước Đức giáo hoàng, là người kế vị Thánh Phero, đã được Chúa Giêsu trao quyền Giáo hoàng tiên khởi trong Giáo hội Chúa ở trần gian.
Ngày 24.04.2005 khi cử hành thánh lễ đại trào khai mạc sứ vụ mục tử Phero của mình, Đức giáo hoàng Benedicto XVI. đã có suy niệm về chiếc nhẫn ngư phủ:
„Biểu tượng thứ hai được dùng đến trong phụng vụ của ngày hôm nay để diễn tả việc khai mạc Thừa Tác Vụ Phêrô là việc trao chiếc nhẫn ngư phủ.
Lời mời gọi Phêrô trở nên mục tử mà chúng ta đã nghe trong Phúc Âm, xảy ra sau trình thuật về phép lạ bắt được một mẻ cá lớn, sau một đêm các môn đệ thả lưới không thành công, các vị thấy Chúa Phục Sinh trên bờ hồ. Ngài bảo họ hãy thả lưới thêm lần nữa, và lưới đã nặng trĩu khiến các môn đệ phải khó khăn mới kéo lên được; 153 con cá lớn, "và mặc dầu rất nhiều cá, lưới vẫn không bị rách." (x. Ga 21, 11).
Trình thuật này, xảy ra vào cuối cuộc hành trình tại thế của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài, tương ứng với trình thuật thấy được lúc khởi đầu, cả lần đó, các môn đệ cũng chẳng đánh bắt được gì suốt đêm, và cũng lần đó, Chúa Giêsu đã bảo ông Simon hãy thả lưới chỗ sâu một lần nữa. Và Simon, người lúc đó chưa được gọi là Phêrô, đã đưa ra một lời đáp trả tuyệt vời: "Thưa Thầy, nghe lời Thầy, con sẽ thả lưới." Và tiếp đến là việc trao sứ vụ cho ông: "Đừng sợ. Từ nay trở đi, con sẽ đi chài lưới người." (x Lc 5,1-11).“
Ngày nay, Giáo Hội và những Vị kế nhiệm các Thánh Tông Đồ cũng được mời gọi hãy ra khơi tận bể sâu của lịch sử và thả lưới, để giành lấy những người nam nữ cho Phúc Âm, cho Chúa Kitô, cho sự sống thật. Các Nghị Phụ đã đưa ra một lời bình luận rất có ý nghĩa về sứ vụ nổi bật này.
Các ngài nói rằng: thật là tai họa khi đem một con cá, được tạo dựng cho biển, ra khỏi bể khơi, khỏi các yếu tố thiết yếu của nó để làm thức ăn cho nhân loại. Nhưng sứ vụ của người ngư phủ lưới người, có ý nghĩa ngược lại.
Chúng ta hiện đang sống trong sự tha hóa, trong vùng nước mặn của sự khổ đau và chết chóc, trong biển sâu tăm tối không chút ánh sáng. Lưới Phúc Âm cứu vớt chúng ta ra khỏi những dòng nước chết, và đem chúng ta vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa, vào sự sống thật.“ (Vatican ngày 24.04.2005).
Chiếc nhẫn ngư phủ, biểu tượng dấu chỉ tước vị quyền bính của Đức Giáo Hoàng, mà các Vị Giáo hoàng mang trong suốt triều đại giáo hoàng bị phá hủy theo luật Giáo hội ấn định, khi các ngài qua đời. Nhưng ơn kêu gọi là mục tử người dấn thân theo chân Chúa vẫn hằng là tấm gương tinh thần sống động trong lịch sử Hội Thánh Chúa ở trần gian, cho dù các Vị đã băng hà, thể lý không còn hiện diện trên trần gian trong Giáo hội nữa.
Các Ngài trước sau vẫn là Linh mục, là Giám mục đời đời của Chúa Giêsu Kito trên quê trời bên nước Thiên Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Những Yêu Cầu Đặt Ra Cho Vị Giáo Hoàng Kế Nhiệm
Nguyễn Trung Tây
04:06 08/05/2025
Những Yêu Cầu Đặt Ra Cho Vị Giáo Hoàng Kế Nhiệm
Nguyễn Trung Tây
Trong thời đại hiện nay, Giáo Hội Công Giáo đang bước vào một giai đoạn lịch sử đặc biệt, được đánh dấu bởi những thay đổi nhanh chóng và sâu rộng trên nhiều bình diện: công nghệ kỹ thuật số, ngôi làng toàn cầu, môi trường sinh thái, chuyển dịch trung tâm Kitô giáo từ Giáo hội Tây phương xuống Giáo hội phía Nam, Giáo Hội của người nghèo. Những biến chuyển này đặt ra những thách thức lớn nhưng cũng mở ra những cơ hội mục vụ mới mẻ, đòi hỏi Giáo Hội phải không ngừng canh tân đời sống và sứ vụ của mình để đáp ứng cách hữu hiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng trong một thế giới không ngừng biến đổi. Trong bối cảnh đó, vị Giáo Hoàng kế nhiệm được kỳ vọng là người có khả năng đọc các dấu chỉ thời đại, thúc đẩy hiệp hành và đối thoại, đồng thời thể hiện hình ảnh một Đức Kitô nghèo khó, gần gũi và đầy lòng thương xót.
Trước hết, sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số đã và đang định hình một “vũ trụ truyền thông mới” nơi con người tương tác, tìm kiếm thông tin và xây dựng căn tính. Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok hay các podcast và diễn đàn trực tuyến không chỉ là công cụ giao tiếp, mà đã trở thành không gian sống động nơi các giá trị, quan điểm và niềm tin được chia sẻ và tranh luận. Đối với Giáo Hội, đây là một cánh đồng truyền giáo rộng lớn nhưng cũng đầy thách thức. Việc hiện diện trên môi trường mạng đòi hỏi một chiến lược mục vụ rõ ràng, một linh đạo truyền thông trưởng thành, và những con người có khả năng làm chứng cho Đức Kitô bằng sự chân thành, đối thoại và sáng tạo. Vị Giáo Hoàng kế nhiệm cần tiếp nối và phát triển hơn nữa tầm nhìn của Đức Phanxicô về “thế giới kỹ thuật số như một phần thiết yếu trong việc xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ” (Fratelli Tutti, số 205).
Thứ hai, tiến trình toàn cầu hóa đã làm cho thế giới trở nên một “ngôi làng toàn cầu,” nơi các nền văn hóa và tôn giáo giao thoa, đan xen và cùng tồn tại. Môi trường đa nguyên này, nếu không được tiếp cận bằng tinh thần đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, sẽ dễ dẫn đến xung đột, loại trừ và chủ nghĩa cực đoan. Giáo Hội được mời gọi đóng vai trò là nhịp cầu nối kết giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau, qua đó cùng nhau cổ võ cho hòa bình, công lý và sự phát triển toàn diện của con người. Từ Công đồng Vaticanô II với tuyên ngôn Nostra Aetate, đến các cuộc gặp gỡ liên tôn tại Assisi, Giáo Hội đã khẳng định chiều kích đối thoại như một thành phần không thể thiếu trong bản chất và sứ vụ của mình. Vị Giáo Hoàng tương lai phải tiếp tục mở rộng các không gian đối thoại chân thành, trong khi vẫn trung tín với căn tính Kitô giáo và Tin Mừng cứu độ phổ quát.
Thứ ba, vấn đề biến đổi khí hậu và khủng hoảng sinh thái đang trở thành một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự sống của hành tinh và tương lai nhân loại. Đây không còn chỉ là một vấn đề khoa học hay chính trị, mà là một thách đố đạo đức và thiêng liêng. Thông điệp Laudato Si’ (2015) đã đặt nền tảng cho một linh đạo sinh thái toàn diện, nhấn mạnh sự liên đới giữa con người với môi trường và kêu gọi một cuộc hoán cải sinh thái sâu sắc trong đời sống cá nhân cũng như cơ cấu xã hội. Vị Giáo Hoàng kế tiếp cần tiếp tục khơi dậy ý thức sinh thái trong lòng Giáo Hội, đẩy mạnh các sáng kiến mục vụ liên quan đến công bằng môi sinh, và thúc đẩy sự cộng tác liên ngành giữa khoa học, giáo dục, kinh tế và thần học để bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại.
Một chiều kích quan trọng khác của hiện tình Giáo Hội là sự chuyển dịch trung tâm của Kitô giáo từ các quốc gia Tây phương và Bắc bán cầu sang phía Nam toàn cầu, bao gồm Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ Latinh. Tại các khu vực này, mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, đời sống đức tin lại thể hiện một sức sống phong phú, trẻ trung và dấn thân. Sự tăng trưởng dân số Kitô hữu và ơn gọi linh mục, tu sĩ tại các lục địa phía Nam không chỉ là dấu chỉ hy vọng, mà còn là lời nhắc nhở Giáo Hội hoàn vũ cần xây dựng một nền thần học và mục vụ có tính bản địa hóa, nhạy bén với văn hóa và lịch sử địa phương. Một Giáo Hội thực sự “Công Giáo” không thể tiếp tục vận hành theo mô hình trung tâm Âu Châu, mà phải biết lắng nghe và học hỏi từ những kinh nghiệm sống động tại các Giáo Hội địa phương. Trong chiều hướng đó, vị Giáo Hoàng kế nhiệm cần thể hiện một tầm nhìn toàn cầu thực sự, vượt qua các giới hạn địa lý và văn hóa, để đồng hành và nâng đỡ những tiếng nói đang trỗi dậy từ “các vùng ngoại biên.”
Sau cùng, trong một thế giới bị phân mảnh bởi chiến tranh, bạo lực, bất công xã hội và nghèo đói, Giáo Hội được mời gọi tiếp tục trở thành dấu chỉ và khí cụ của tình yêu thương Thiên Chúa qua việc dấn thân cho người nghèo và những ai bị gạt ra bên lề. Hình ảnh Đức Giêsu, Đấng “Chạnh-Lòng-Thương,” phải là mẫu mực cho mọi hoạt động mục vụ của Giáo Hội hôm nay. Một vị Giáo Hoàng tương lai cần mang lấy tinh thần nghèo khó Tin Mừng, thể hiện sự gần gũi, lắng nghe và đồng hành với mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là những người nghèo, yếu thế. Ngài không chỉ là nhà thần học hay nhà lãnh đạo hành chính, mà còn là một mục tử với “mùi chiên,” biết đặt mình ở giữa cộng đoàn như người anh em và người phục vụ.
Tóm lại, những thách đố của thế giới hiện nay không chỉ là vấn đề của xã hội dân sự, mà là những ưu tư mục vụ, thần học và nhân bản mà Giáo Hội cần phải đối diện cách trung thực và đầy hy vọng. Vị Giáo Hoàng kế nhiệm sẽ đóng một vai trò then chốt trong việc hướng dẫn Giáo Hội bước đi trong tinh thần hiệp hành, đối thoại, hoán cải và phục vụ, những giá trị nền tảng cho một Giáo Hội “ra đi,” “hiệp thông” và “có tính ngôn sứ” trong thế kỷ XXI.
Nguyễn Trung Tây
Trong thời đại hiện nay, Giáo Hội Công Giáo đang bước vào một giai đoạn lịch sử đặc biệt, được đánh dấu bởi những thay đổi nhanh chóng và sâu rộng trên nhiều bình diện: công nghệ kỹ thuật số, ngôi làng toàn cầu, môi trường sinh thái, chuyển dịch trung tâm Kitô giáo từ Giáo hội Tây phương xuống Giáo hội phía Nam, Giáo Hội của người nghèo. Những biến chuyển này đặt ra những thách thức lớn nhưng cũng mở ra những cơ hội mục vụ mới mẻ, đòi hỏi Giáo Hội phải không ngừng canh tân đời sống và sứ vụ của mình để đáp ứng cách hữu hiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng trong một thế giới không ngừng biến đổi. Trong bối cảnh đó, vị Giáo Hoàng kế nhiệm được kỳ vọng là người có khả năng đọc các dấu chỉ thời đại, thúc đẩy hiệp hành và đối thoại, đồng thời thể hiện hình ảnh một Đức Kitô nghèo khó, gần gũi và đầy lòng thương xót.
Trước hết, sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số đã và đang định hình một “vũ trụ truyền thông mới” nơi con người tương tác, tìm kiếm thông tin và xây dựng căn tính. Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok hay các podcast và diễn đàn trực tuyến không chỉ là công cụ giao tiếp, mà đã trở thành không gian sống động nơi các giá trị, quan điểm và niềm tin được chia sẻ và tranh luận. Đối với Giáo Hội, đây là một cánh đồng truyền giáo rộng lớn nhưng cũng đầy thách thức. Việc hiện diện trên môi trường mạng đòi hỏi một chiến lược mục vụ rõ ràng, một linh đạo truyền thông trưởng thành, và những con người có khả năng làm chứng cho Đức Kitô bằng sự chân thành, đối thoại và sáng tạo. Vị Giáo Hoàng kế nhiệm cần tiếp nối và phát triển hơn nữa tầm nhìn của Đức Phanxicô về “thế giới kỹ thuật số như một phần thiết yếu trong việc xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ” (Fratelli Tutti, số 205).
Thứ hai, tiến trình toàn cầu hóa đã làm cho thế giới trở nên một “ngôi làng toàn cầu,” nơi các nền văn hóa và tôn giáo giao thoa, đan xen và cùng tồn tại. Môi trường đa nguyên này, nếu không được tiếp cận bằng tinh thần đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, sẽ dễ dẫn đến xung đột, loại trừ và chủ nghĩa cực đoan. Giáo Hội được mời gọi đóng vai trò là nhịp cầu nối kết giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau, qua đó cùng nhau cổ võ cho hòa bình, công lý và sự phát triển toàn diện của con người. Từ Công đồng Vaticanô II với tuyên ngôn Nostra Aetate, đến các cuộc gặp gỡ liên tôn tại Assisi, Giáo Hội đã khẳng định chiều kích đối thoại như một thành phần không thể thiếu trong bản chất và sứ vụ của mình. Vị Giáo Hoàng tương lai phải tiếp tục mở rộng các không gian đối thoại chân thành, trong khi vẫn trung tín với căn tính Kitô giáo và Tin Mừng cứu độ phổ quát.
Thứ ba, vấn đề biến đổi khí hậu và khủng hoảng sinh thái đang trở thành một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự sống của hành tinh và tương lai nhân loại. Đây không còn chỉ là một vấn đề khoa học hay chính trị, mà là một thách đố đạo đức và thiêng liêng. Thông điệp Laudato Si’ (2015) đã đặt nền tảng cho một linh đạo sinh thái toàn diện, nhấn mạnh sự liên đới giữa con người với môi trường và kêu gọi một cuộc hoán cải sinh thái sâu sắc trong đời sống cá nhân cũng như cơ cấu xã hội. Vị Giáo Hoàng kế tiếp cần tiếp tục khơi dậy ý thức sinh thái trong lòng Giáo Hội, đẩy mạnh các sáng kiến mục vụ liên quan đến công bằng môi sinh, và thúc đẩy sự cộng tác liên ngành giữa khoa học, giáo dục, kinh tế và thần học để bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại.
Một chiều kích quan trọng khác của hiện tình Giáo Hội là sự chuyển dịch trung tâm của Kitô giáo từ các quốc gia Tây phương và Bắc bán cầu sang phía Nam toàn cầu, bao gồm Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ Latinh. Tại các khu vực này, mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, đời sống đức tin lại thể hiện một sức sống phong phú, trẻ trung và dấn thân. Sự tăng trưởng dân số Kitô hữu và ơn gọi linh mục, tu sĩ tại các lục địa phía Nam không chỉ là dấu chỉ hy vọng, mà còn là lời nhắc nhở Giáo Hội hoàn vũ cần xây dựng một nền thần học và mục vụ có tính bản địa hóa, nhạy bén với văn hóa và lịch sử địa phương. Một Giáo Hội thực sự “Công Giáo” không thể tiếp tục vận hành theo mô hình trung tâm Âu Châu, mà phải biết lắng nghe và học hỏi từ những kinh nghiệm sống động tại các Giáo Hội địa phương. Trong chiều hướng đó, vị Giáo Hoàng kế nhiệm cần thể hiện một tầm nhìn toàn cầu thực sự, vượt qua các giới hạn địa lý và văn hóa, để đồng hành và nâng đỡ những tiếng nói đang trỗi dậy từ “các vùng ngoại biên.”
Sau cùng, trong một thế giới bị phân mảnh bởi chiến tranh, bạo lực, bất công xã hội và nghèo đói, Giáo Hội được mời gọi tiếp tục trở thành dấu chỉ và khí cụ của tình yêu thương Thiên Chúa qua việc dấn thân cho người nghèo và những ai bị gạt ra bên lề. Hình ảnh Đức Giêsu, Đấng “Chạnh-Lòng-Thương,” phải là mẫu mực cho mọi hoạt động mục vụ của Giáo Hội hôm nay. Một vị Giáo Hoàng tương lai cần mang lấy tinh thần nghèo khó Tin Mừng, thể hiện sự gần gũi, lắng nghe và đồng hành với mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là những người nghèo, yếu thế. Ngài không chỉ là nhà thần học hay nhà lãnh đạo hành chính, mà còn là một mục tử với “mùi chiên,” biết đặt mình ở giữa cộng đoàn như người anh em và người phục vụ.
Tóm lại, những thách đố của thế giới hiện nay không chỉ là vấn đề của xã hội dân sự, mà là những ưu tư mục vụ, thần học và nhân bản mà Giáo Hội cần phải đối diện cách trung thực và đầy hy vọng. Vị Giáo Hoàng kế nhiệm sẽ đóng một vai trò then chốt trong việc hướng dẫn Giáo Hội bước đi trong tinh thần hiệp hành, đối thoại, hoán cải và phục vụ, những giá trị nền tảng cho một Giáo Hội “ra đi,” “hiệp thông” và “có tính ngôn sứ” trong thế kỷ XXI.
VietCatholic TV
Chiều 08.05 Diễn biến bầu Giáo Hoàng: Quảng trường Thánh Phêrô đông nghẹt, chờ đợi giây phút lịch sử
VietCatholic Media
07:39 08/05/2025
1. Sau 3 cuộc bỏ phiếu, vẫn chưa có giáo hoàng nhưng các tín hữu vẫn không nản chí tiếp tục tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô
Các Hồng Y cử tri đã bỏ phiếu hai lần vào sáng Thứ Năm, 08 Tháng Năm, và trước buổi trưa theo giờ địa phương, lại có thêm khói đen.
Các cử tri của Hồng Y đoàn đã không bầu ra được một vị giáo hoàng trong cuộc bỏ phiếu duy nhất vào tối ngày Thứ Tư, 07 Tháng Năm. Các ngài đã trở lại Nhà nguyện Sistina để tham gia ngày thảo luận và bỏ phiếu thứ hai.
Khói đen được phát hiện từ ống khói của Nhà nguyện Sistina trước buổi trưa - sớm hơn một chút so với ước tính. Điều này có nghĩa là 133 Hồng Y cử tri đã không bầu ra được vị Tân Giáo Hoàng trong 2 cuộc bỏ phiếu thứ hai và thứ ba.
Cuộc bỏ phiếu thứ hai được tổ chức sớm hơn vào buổi sáng và chắc chắn chưa bầu ra được vị Tân Giáo Hoàng. Nếu bầu được, đã có khói trắng từ giữa buổi sáng.
Vì vậy, khói đen vào khoảng trưa ngày 8 tháng 5 có nghĩa là các Hồng Y cử tri đã không bầu ra được vị Tân Giáo Hoàng trong 2 cuộc bỏ phiếu thứ hai và thứ ba.
Các Hồng Y hiện có khoảng bốn giờ để ăn trưa và nghỉ ngơi tại dinh thự Santa Marta. Do đó, quá trình bỏ phiếu tiếp theo sẽ bắt đầu lại sau khoảng năm giờ.
Để được bầu làm giáo hoàng, một ứng cử viên phải nhận được ít nhất 89 phiếu bầu từ 133 Hồng Y cử tri.
Các Hồng Y sẽ bỏ phiếu thêm hai lần nữa vào buổi chiều. Các tín hữu vẫn tràn trề hy vọng có thể có khói trắng vào tối nay theo giờ Rôma. Đám đông vẫn tụ tập rất đông đảo tại quảng trường Thánh Phêrô. Tin tưởng phổ biến ở Rôma là có khả năng lớn là Hồng Y đoàn sẽ bầu ra một vị giáo hoàng vào hôm nay: cả Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đều được bầu vào ngày thứ hai của Cơ Mật Viện Hồng Y.
Một số ký giả Ý thạo tin về các vấn đề liên quan đến Vatican cho rằng sẽ sớm có kết quả bầu Giáo Hoàng và có lẽ Đức Hồng Y Pietro sẽ được chọn.
Trong triều Giáo Hoàng của ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tấn phong cho 163 Hồng Y từ 76 quốc gia, trong đó có 25 quốc gia chưa bao giờ có Hồng Y. Sự phân tán như vậy có những lợi ích, nhưng liên quan đến việc bầu tân Giáo Hoàng sẽ có trở ngại vì các Hồng Y không biết nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng chủ yếu dựa vào nhóm Hồng Y cố vấn gồm 9 vị. Thành ra, Hồng Y Đoàn ít có dịp gặp gỡ nhau.
Trong bối cảnh không biết nhau như thế, có lẽ các Hồng Y sẽ bầu cho những vị mà các ngài biết rõ và có thể tin tưởng được, và vị đó có thể là Đức Hồng Y Pietro Parolin vì ai cũng biết ngài trong tư cách Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.
2. Khói đen tại Cơ Mật Viện, chưa có Giáo Hoàng sau 2 cuộc bỏ phiếu sáng thứ Năm
Lúc 11:50 sáng Thứ Năm, 08 Tháng Năm, tức là 4:50 chiều theo giờ Việt Nam, khói đen đã bốc lên từ ống khói trên đỉnh Nhà nguyện Sistina, báo hiệu rằng các Hồng Y đang trong Cơ Mật Viện vẫn chưa bầu ra được giáo hoàng mới để lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Hàng ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô chờ khói bốc lên từ ống khói trên mái nhà nguyện, và khói đã bốc lên ngay trước buổi trưa
133 vị Hồng Y dưới 80 tuổi đã bắt đầu tiến trình bầu bí mật và mang tính nghi lễ cao này vào thứ Tư, trong sự cô lập hoàn toàn khi các ngài chọn người kế nhiệm cố Đức Thánh Cha Phanxicô.
Họ đốt các lá phiếu và trộn chúng với hóa chất để cho biết tiến trình diễn ra như thế nào -- màu đen báo hiệu không có giáo hoàng và màu trắng báo hiệu có giáo hoàng mới.
Các Hồng Y đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu ban đầu không có kết quả vào tối Thứ Tư, 07 Tháng Năm. Các ngài sẽ tổ chức thêm hai cuộc bỏ phiếu nữa vào chiều Thứ Năm, 08 Tháng Năm.
Các “hoàng tử của Giáo hội” đội mũ đỏ sẽ tiếp tục bỏ phiếu tới bốn lần một ngày cho đến khi có người giành được đa số hai phần ba.
Không có giáo hoàng nào trong thời hiện đại được bầu trong lần đầu tiên, vì vậy khói đen của ngày thứ Tư được dự đoán rộng rãi. Nhưng xét theo lịch sử gần đây, kết quả cuối cùng có thể có bắt đầu từ Thứ Năm, 08 Tháng Năm.
Hiện nay, tin tưởng phổ biến ở Rôma vẫn cho rằng sẽ có vị Tân Giáo Hoàng trong ngày Thứ Năm, 08 Tháng Năm. Vì thế, đông đảo các tín hữu vẫn tiếp tục tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Phanxicô, giáo hoàng đầu tiên đến từ Mỹ Latinh, được bầu vào buổi tối ngày thứ hai của Cơ Mật Viện Hồng Y cuối cùng được tổ chức vào năm 2013, giống như người tiền nhiệm của ngài, Đức Bênêđíctô XVI, vào năm 2005.
3. Vị ẩn sĩ thánh thiện này đã bỏ trốn khi được chọn làm giáo hoàng
Sau khi một Giáo Hoàng được bầu, Chưởng Nghi Phụng Vụ của Giáo triều Rôma sẽ trở về Nhà nguyện Sistina và Đức Hồng Y Pietro Parolin sẽ hỏi vị được bầu: “Ngài có chấp nhận cuộc bầu cử theo giáo luật của mình làm Giáo Hoàng tối cao không?”
Giả sử vị Hồng Y nói “Tôi chấp nhận”, vị niên trưởng sẽ hỏi: “Ngài muốn được gọi bằng tên gì?”
Đương nhiên, nếu chính Đức Hồng Y Pietro Parolin là người được bầu, thì Hồng Y Đoàn phải chọn một vị khác, có thể là Đức Hồng Y Nhiếp Chính Kevin Farrell để hỏi Đức Hồng Y Parolin.
Câu hỏi được đặt ra là có khi nào vị được hỏi trả lời rằng “Không, tôi không chấp nhận”. Trong lịch sử điều đó đã xảy ra.
Đức Giáo Hoàng Celestinô Đệ Ngũ đã không muốn trở thành giáo hoàng và đã thực sự bỏ chạy khi được chọn làm người kế nhiệm Thánh Phêrô.
Trước khi được chọn làm giáo hoàng tiếp theo, Pietro de Morone yêu thích sự cô độc. Bách khoa toàn thư Công Giáo giải thích cách ngài lần đầu tiên trở thành ẩn sĩ:
Ngài xuất thân từ gia đình bình dân, trở thành một tu sĩ dòng Bênêđíctô ở tuổi 17, và cuối cùng được thụ phong linh mục tại Rôma. Tình yêu cô độc đã dẫn ngài đến vùng hoang dã Monte Morone ở Abruzzi và sau đó đến những nơi hẻo lánh hơn của Núi Majella. Ngài lấy hình mẫu của mình là Thánh Gioan Tẩy Giả. Một sợi xích sắt bao quanh thân hình gầy gò của ngài; ngài ăn chay mỗi ngày trừ Chúa Nhật; mỗi năm ngài giữ bốn Mùa Chay tịnh, trong đó có ba chỉ ăn bánh mì và nước.
Trong khi ngài tìm kiếm sự tĩnh lặng, nhiều người đàn ông khác bị thu hút bởi lối sống của ngài và tụ tập quanh ngài.
Khi giáo hoàng thời của ngài qua đời, Hồng Y Đoàn đã gặp khó khăn trong việc lựa chọn người kế nhiệm. Tin tức về việc Giáo hội vẫn chưa có giáo hoàng đã đến tai Pietro. Ngài đã viết một lá thư cho các Hồng Y, cầu xin các Hồng Y bầu một người nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện.
Để đáp lại, các Hồng Y quyết định bầu chính Pietro, dựa trên danh tiếng của ngài và bức thư ngài đã gửi.
Khi các Hồng Y hỏi Pietro, ngài bỏ chạy vì không muốn gánh vác trách nhiệm làm Giáo hoàng tối cao.
Ngài thích cuộc sống ẩn dật và thấy rằng một vai trò quan trọng như vậy trong Giáo hội là quá sức đối với ngài.
Các Hồng Y đã lần ra dấu vết của ngài và cuối cùng ngài đã nhượng bộ, nhận vương miện giáo hoàng và chọn danh hiệu là Đức Giáo Hoàng Celestinô Đệ Ngũ.
Tuy nhiên, triều Giáo Hoàng của ngài kéo dài không lâu vì trái tim ngài khao khát được ở trong sự cô độc. Chỉ sau năm tháng, ngài trở thành giáo hoàng đầu tiên từ chức
Đây là vị giáo hoàng mà nhiều người coi là người mở đường cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 trong thời đại của chúng ta, nhiều thế kỷ sau đó.
Đức Giáo Hoàng Celestinô Đệ Ngũ sau đó được phong thánh, và tấm gương của ngài nhắc nhở tất cả chúng ta về sức nặng to lớn của chức giáo hoàng và gánh nặng mà Đức Giáo Hoàng phải gánh vác mỗi ngày. Nó cũng nhắc nhở rằng mỗi vị thánh đều có những ân sủng, tài năng và khả năng riêng, và một người rất thánh thiện đến mức trở thành một vị thánh có thể không đủ khả năng để trở thành giáo hoàng.
Vì thế, khác với chính trị thế tục, bất kể vị Giáo Hoàng được chọn là ai, ta hãy vâng phục và cầu nguyện cho ngài.
4. Lịch trình của Cơ Mật Viện, ngày 8 tháng 5
Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh, đã công bố lịch trình sau đây cho Cơ Mật Viện vào thứ năm, ngày 8 tháng 5, ngày thứ hai của Cơ Mật Viện:
7h45 (giờ Rôma): khởi hành từ nhà trọ Santa Marta đến Dinh Tông Tòa
8:15: Thánh lễ và Kinh Sáng tại Nhà nguyện Pauline
9:15: Tập trung tại Nhà nguyện Sistina
10:30 sáng: kết thúc cuộc bỏ phiếu thứ hai (cuộc bỏ phiếu đầu tiên diễn ra vào ngày 7 tháng 5)
12:00 trưa: kết thúc cuộc bỏ phiếu thứ ba
12:30: Đi ăn trưa tại nhà trọ Thánh Marta
3:45: trở về Điện Tông Tòa
4:30: tiếp tục bỏ phiếu
5:30: Kết thúc vòng bỏ phiếu thứ tư
7:00: Kết thúc vòng bỏ phiếu thứ năm và Kinh Chiều, Nhà nguyện Sistina
7:30: trở về nhà trọ Thánh Marta
Trong các Cơ Mật Viện gần đây nhất:
Năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được bầu vào ngày thứ hai, trong cuộc bỏ phiếu thứ năm.
Năm 2005, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 được bầu vào ngày thứ hai, trong cuộc bỏ phiếu thứ tư.
Vào tháng 10 năm 1978, Đức Giáo Hoàng Thánh Gioan Phaolô II đã được bầu vào ngày thứ ba, trong cuộc bỏ phiếu thứ tám.
Vào tháng 8 năm 1978, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã được bầu vào ngày thứ hai, trong cuộc bỏ phiếu thứ tư.
Năm 1963, Đức Giáo Hoàng Thánh Phaolô VI đã được bầu vào ngày thứ ba, trong cuộc bỏ phiếu thứ sáu.
Năm 1958, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã được bầu vào ngày thứ tư, trong cuộc bỏ phiếu thứ mười một.
5. Âu Châu có nhiều Hồng Y hơn mức công bằng
Lục địa Cũ có số lượng đại diện quá đông đảo trong Hồng Y Đoàn đang họp để bầu ra giáo hoàng tiếp theo của họ — bất chấp những nỗ lực đa dạng hóa của Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô.
Trong số 133 Hồng Y tập trung tại Nhà nguyện Sistina để tham dự Cơ Mật Viện, 52 vị (khoảng 40 phần trăm) là các Hồng Y từ Âu Châu.
Sự lựa chọn người kế nhiệm của các ngài sẽ định hình hướng đi cho một giáo hội đang chia rẽ giữa các thế lực phi chính thống và truyền thống, đưa ra một nhà lãnh đạo tôn giáo mới cho 1,4 tỷ người Công Giáo trên toàn thế giới. Nhưng phần lớn các tín hữu Công Giáo ngày nay không phải là người Âu Châu.
Đức Thánh Cha Phanxicô, vị giáo hoàng đầu tiên không phải người Âu Châu sau hơn một thiên niên kỷ, đã có một số bước tiến nhằm trao cho Nam bán cầu trọng lượng hơn.
Cơ Mật Viện sẽ trông còn ít mang tính Âu Châu hơn nếu diễn ra vào năm sau, vì một số Hồng Y Âu Châu sắp hết tuổi bỏ phiếu. Độ tuổi giới hạn để bầu một giáo hoàng mới là 80, và chín trong số 52 Hồng Y bỏ phiếu của Âu Châu đã 79.
Nhưng trong khi các cuộc tấn phong Hồng Y của Đức Thánh Cha Phanxicô báo hiệu một sự thay đổi, chúng không đánh dấu một cuộc cách mạng: Phần lớn các Hồng Y được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm trong Cơ Mật Viện vẫn là người Âu Châu. Nhóm Hồng Y bỏ phiếu lớn nhất, 17 người trong số các vị, là người Ý; Hoa Kỳ đứng thứ hai, với 10 Hồng Y, theo số liệu của báo cáo của Hồng Y Đoàn.
6. Tường trình ngày đầu tiên trong Cơ Mật Viện
Ngày đầu tiên trong Cơ Mật Viện đã bắt đầu với thánh lễ Pro Eligendo Pontifice, nghĩa là “để bầu Giáo Hoàng”, diễn ra vào lúc 10 giờ sáng tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng Y Đoàn đã chủ sự thánh lễ cùng với tất cả các Hồng Y cử tri. Trong bài giảng thánh lễ, ngài kêu gọi sự hiệp nhất trong Giáo Hội và cầu nguyện rằng Chúa Thánh Thần, Đấng trong một trăm năm qua đã ban cho chúng ta một loạt các Giáo hoàng thực sự thánh thiện và vĩ đại, sẽ ban cho chúng ta một Giáo hoàng mới theo lòng Chúa vì lợi ích của Giáo hội và nhân loại.
Ban chiều, các Hồng Y cử tri đã tập trung tại Nhà nguyện Pauline tại Điện Tông tòa lúc 4:30 chiều giờ Rôma và long trọng đi rước vào Cơ Mật Viện được tổ chức tại nhà nguyện Sistina. Các Hồng Y, theo thứ tự cấp bậc, diễn hành một đoạn ngắn vào Nhà nguyện Sistina trong tiếng hát Kinh cầu các thánh, tiếp theo là lời cầu nguyện, bao gồm lời cầu nguyện xin Chúa “ban cho Giáo hội của Người một giáo hoàng làm Người hài lòng với sự thánh thiện của cuộc đời mình” và “rằng Người đổ tràn sức mạnh của Thánh Thần của Người vào Cơ Mật Viện này”.
Bên trong Nhà nguyện Sistina, mỗi Hồng Y cử tri đứng trước chỗ ngồi được chỉ định của mình, quay mặt về phía Sách Phúc Âm, đặt trên bục giảng ở giữa phòng.
Thông thường, niên trưởng Hồng Y Đoàn là người chủ trì các cuộc họp bên trong Cơ Mật Viện, và ngài phải bảo đảm rằng mỗi Hồng Y sẽ đặt tay lên Phúc âm và tuyên thệ trung thành với các quy tắc của Cơ Mật Viện.
Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng Y Đoàn, đã 91 tuổi không còn quyền bầu Giáo Hoàng nên người chủ trì các cuộc họp bên trong Cơ Mật Viện lần này là Đức Hồng Y Pietro Parolin, nguyên Quốc vụ khanh trong triều Giáo Hoàng của Đức Phanxicô, và là Hồng Y trưởng đẳng Giám Mục.
Mở đầu các nghi thức, Đức Hồng Y Pietro Parolin đã đọc kinh “Veni, Creator Spiritus” nghĩa là “Xin ngự đến, lạy Thánh Thần sáng tạo”
Xin ngự đến, lạy Thánh Thần sáng tạo,
Đến viếng thăm và tuôn đổ ơn trời
Xuống cõi lòng và tâm trí bề tôi
Là sản phẩm do tay Ngài mà có.
Tôn hiệu Chúa chính là Người Bảo Trợ,
Là món quà của Thiên Chúa tối cao,
Là lửa thiêng, tình mến, suối dạt dào,
Ấn Thiên Chúa đóng vào hồn tín hữu.
Là nguồn mạch bảy hồng ân kỳ diệu,
Là ngón tay thần diệu Chúa thiên đàng,
Và chính là ơn Cha hứa tặng ban
Cho tín hữu nói năng thật lợi khẩu
Xin chiếu sáng hầu mở mang trí não,
Đổ tình thương cho tràn ngập tâm hồn
Thân yếu hèn giòn mỏng của chúng con
Luôn trông đợi sức thiêng Ngài bồi dưỡng.
Xin xua đuổi địch thù cho khuất dạng
Chúng con liền vui hưởng phúc bình an.
Được Ngài thương hằng chỉ lối mở đàng,
Là tránh khỏi muôn lỗi lầm nguy hại.
Xin Ngài dạy cho biết Cha từ ái,
Cùng am tường về Thánh Tử khoan nhân.
Và hằng tin : Ngài là chính Thánh Thần
Nguồn thương mến giữa Hai Ngôi bền chặt.
Sau đó, với tư cách là người chủ trì nghi lễ, đã cầu nguyện: “Lạy Cha, Đấng hướng dẫn và bảo vệ Giáo hội của Cha, xin ban cho các tôi tớ Cha Thần trí tuệ, chân lý, bình an, để họ có thể nỗ lực hiểu biết ý muốn của Cha và phục vụ Cha với sự tận tụy hoàn toàn. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.”
Một phút mặc niệm trước khi Đức Hồng Y Parolin đọc lời tuyên thệ mà mỗi Hồng Y phải thực hiện: “Chúng tôi hứa, bắt buộc và tuyên thệ rằng chúng tôi sẽ trung thành và cẩn thận tuân thủ mọi quy định có trong tông hiến của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, Universi Dominus Gregis… Tương tự như vậy, chúng tôi hứa, bắt buộc và tuyên thệ rằng bất kỳ ai trong chúng tôi, theo sự sắp đặt của Chúa, được bầu làm giáo hoàng Rôma, sẽ cam kết thực hiện trung thành “munus Petrinum” – sứ vụ Phêrô - của mục tử toàn thể Hội Thánh và sẽ không thất bại trong việc khẳng định và bảo vệ mạnh mẽ các quyền và tự do về tinh thần và thế tục của Tòa thánh. Trên hết, chúng tôi hứa và tuyên thệ sẽ nghiêm cẩn gìn giữ với sự trung thành cao nhất và với tất cả mọi người, cả giáo sĩ và giáo dân, bí mật về mọi thứ theo bất kỳ cách nào liên quan đến cuộc bầu cử giáo hoàng Rôma và về những gì diễn ra tại nơi bầu cử, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc bỏ phiếu; không vi phạm theo bất kỳ cách nào bí mật này trong hoặc sau cuộc bầu cử giáo hoàng mới, trừ khi đã được cấp phép rõ ràng bởi chính Đức Giáo Hoàng; không bao giờ hỗ trợ hoặc ưu ái bất kỳ sự can thiệp, phản đối hoặc bất kỳ hình thức can thiệp nào khác mà chính quyền thế tục ở bất kỳ cấp bậc và mức độ nào, hoặc bất kỳ nhóm người hoặc cá nhân nào muốn can thiệp vào cuộc bầu cử giáo hoàng Rôma.”
Sau đó, mỗi vị trong số 133 vị Hồng Y đã lần lượt bước lên bục giảng và đặt tay lên Sách Phúc Âm và nói: “Xin Chúa và những Sách Phúc Âm thánh thiện, mà con chạm tay vào, giúp con”.
Sau đó Đức Tổng Giám Mục Ravelli, Chưởng Nghi Phụng Vụ của Giáo triều Rôma, tức là vị phụ trách nghi lễ của Đức Giáo Hoàng, tuyên bố “extra omnes”, tất cả các trợ lý, ca đoàn và nhân viên phục vụ rời khỏi phòng và chương trình phát trực tiếp tắt đi.
Với lời tuyên bố “extra omnes” (“tất cả ra ngoài”) vào chiều ngày 7 tháng 5, những cánh cửa gỗ dày của Nhà nguyện Sistina đã được đóng lại và được lính gác Thụy Sĩ canh gác ở mọi lối vào trong khi 133 Hồng Y cử tri bắt đầu công việc trọng đại là bầu giáo hoàng mới và lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.
Ngồi thành những dãy bàn dưới ánh nhìn chăm chú vào bức tranh Ngày Phán xét cuối cùng đầy sức mạnh của Michelangelo, trước các cuộc thảo luận và cuộc bỏ phiếu đầu tiên, các Hồng Y cử tri đã lắng nghe bài suy niệm của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 90 tuổi, cựu giảng thuyết viên của phủ Giáo Hoàng trong 44 năm.
Theo nghi thức của Cơ Mật Viện, Đức Hồng Y Cantalamessa — được Hồng Y đoàn bầu vào tuần trước — đã thuyết giảng cho các Hồng Y cử tri về bản chất rất nghiêm trọng liên quan đến nhiệm vụ của các ngài và sự cần thiết phải hành động với ý định đúng đắn, cố gắng hết sức để thực hiện thánh ý Chúa và mong muốn điều tốt đẹp cho toàn thể Giáo hội, trong nhiệm vụ bầu ra Giáo hoàng Rôma tiếp theo.
Sau đó, Đức Hồng Y Cantalamessa và Tổng giám mục Diego Ravelli, phụ trách nghi lễ của giáo hoàng, đã là hai người cuối cùng rời khỏi Nhà nguyện Sistina trước khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Cảnh tượng đầu tiên của khói từ ống khói Nhà nguyện Sistina đã xuất hiện vào buổi tối theo giờ Rôma, và như chúng tôi dự đoán, đó là khói đen, nghĩa là chưa bầu được Giáo Hoàng mới.
Phiên họp đã kết thúc bằng lời cầu nguyện cùng Đức Mẹ, hát bài “Sub tuum praesidium,” là bài thánh ca về Đức Mẹ lâu đời nhất của Giáo hội. Người Công Giáo Việt Nam gọi kinh Sub tuum praesidium là Kinh Trông Cậy.
Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ đồng trinh, hiển vinh sáng láng.
7. Chúng ta có thể biết kết quả bầu Giáo Hoàng vào lúc mấy giờ?
Sau đây là thời gian mà mọi người có thể nhìn thấy những đám khói bốc lên từ những ống khói nổi tiếng nhất thế giới.
Cơ Mật Viện bầu người kế nhiệm Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chính thức khai mạc vào ngày 7 tháng 5, và các Hồng Y cử tri của Hồng Y đoàn dự kiến sẽ bỏ phiếu một lần vào ngày đầu tiên đó. Tuy nhiên, trong lịch sử cận đại chưa lần nào cuộc bỏ phiếu đầu tiên này bầu ra được một vị Giáo Hoàng. Ngoài ra, không thể loại trừ khả năng là Hồng Y Đoàn quyết định không bỏ phiếu vào ngày 7 Tháng Năm. Vì thế, có lẽ không nên kỳ vọng quá nhiều rằng chúng ta sẽ có một vị Tân Giáo Hoàng ngày thứ Tư 7 Tháng Năm.
Từ ngày 8 tháng 5 trở đi, các Hồng Y cử tri sẽ bỏ phiếu hai lần vào buổi sáng và hai lần vào buổi chiều cho đến khi một vị Tân Giáo Hoàng mới được bầu.
Hai trong số 135 Hồng Y cử tri không đến được vì lý do sức khỏe nên có 133 Hồng Y cử tri. Và do đó, vị Tân Giáo Hoàng cần phải nhận được ít nhất là 89 phiếu.
Theo Vatican News, nếu không có vị Tân Giáo Hoàng mới sau ba ngày bỏ phiếu, các Hồng Y sẽ được nghỉ ít nhất một ngày để cầu nguyện, thảo luận về cuộc bầu cử với các Hồng Y khác. Các ngài sẽ nghe một bài chia sẻ từ Đức Hồng Y Dominique Mamberti, là Hồng Y trưởng đẳng Phó tế.
Nhưng điều này sẽ xảy ra vào lúc mấy giờ?
Mỗi Cơ Mật Viện đều khác nhau và với 133 vị tham gia bầu cử, đông nhất từ trước đến nay, cuộc bỏ phiếu có thể sẽ không diễn ra nhanh chóng.
Tuy nhiên, dựa trên các Cơ Mật Viện trước đây, sau đây là thời điểm người ta có thể thấy khói bốc lên từ ống khói của Nhà nguyện Sistina. Xin lưu ý với quý vị và anh chị em tất cả đều chỉ là thời gian gần đúng. Như chúng tôi nói ở trên, mỗi buổi có 2 cuộc bỏ phiếu. Nếu cuộc bỏ phiếu thứ nhất bầu được Giáo Hoàng, các phiếu bầu sẽ được đốt ngay lập tức. Nếu cuộc bỏ phiếu thứ nhất KHÔNG bầu được Giáo Hoàng, các phiếu bầu KHÔNG được đốt nhưng sẽ chờ đốt chung với các phiếu bầu của cuộc bỏ phiếu thứ hai.
Thời điểm thứ nhất: 10:30 sáng giờ địa phương Rôma, tức là 3:30 chiều giờ Việt Nam; 6:30 chiều giờ Sydney, Melbourne; và 1:30 sáng giờ California. Nếu điều này xảy ra, chúng ta có vị Tân Giáo Hoàng.
Thời điểm thứ hai: Vào giữa trưa theo giờ địa phương Rôma, tức là 5 giờ chiều giờ Việt Nam; 8 giờ tối giờ Sydney, Melbourne; và 3 giờ sáng giờ California. Nếu điều này xảy ra, chúng ta có thể có vị Tân Giáo Hoàng, cũng có thể là không.
Thời điểm thứ ba: 5 giờ chiều giờ địa phương Rôma, hay 10 giờ tối giờ Việt Nam; 1 giờ sáng giờ Sydney, Melbourne; và 8 giờ sáng giờ California. Nếu điều này xảy ra, chúng ta có vị Tân Giáo Hoàng.
Thời điểm thứ tư: Vào 7 giờ tối theo giờ địa phương Rôma, tức là 12 giờ khuya giờ Việt Nam; 3 giờ sáng giờ Sydney, Melbourne; và 10 giờ sáng giờ California. Nếu điều này xảy ra, chúng ta có thể có vị Tân Giáo Hoàng, cũng có thể là không.
Việc bỏ phiếu diễn ra như thế nào?
Sau khi kiểm phiếu xong, phiếu bầu sẽ được đốt để thông báo kết quả bầu cử đến toàn thế giới.
Nếu khói có màu đen thì sẽ không có Đức Giáo Hoàng mới và các Hồng Y sẽ bỏ phiếu lại sau vài giờ hoặc vào sáng hôm sau.
Nhưng nếu khói có màu trắng, hãy hủy bỏ kế hoạch của bạn và ngồi xuống trước chiếc tivi gần nhất hoặc kênh phát trực tiếp và nín thở chờ đợi để xem ai là Người kế vị mới của Thánh Phêrô.
Khoảng nửa giờ đến một giờ sau khi khói trắng xuất hiện, Đức Hồng Y Dominique Mamberti, là Hồng Y trưởng đẳng Phó tế, sẽ công bố “Habemus Papam” (Chúng ta đã có Đức Giáo Hoàng!), và Đức Giáo Hoàng mới sẽ ban phước lành đầu tiên từ ban công của Đền thờ Thánh Phêrô.