Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời Nguyện Giáo Dân: Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney 2008
Nguyễn Trung Tây, SVD
03:11 07/07/2008
Lời nguyện Giáo dânĐại hội Giới Trẻ Thế Giới tại Sydney 2008

1. Cầu cho Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, Linh mục và Tu sĩ Nam Nữ. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ ơn trời xuống trên Đức Giáo Hoàng Biển Đức, các Đức Giám Mục, Linh Mục và Tu sĩ Nam Nữ hiện diện trong Đại Hội Giới Trẻ, để các ngài hồn an xác mạnh, hăng say trong công tác mục vụ, hướng dẫn các bạn trẻ tham dự Đại Hội.
Chúng con cầu xin Chúa.
2. Cầu bình an cho Đại Hội. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn tất cả những chuyến hành hương Đại Hội Giới Trẻ, từ khắp nơi trên thế giới được tràn đầy ơn Chúa, thượng lộ bình an trên mọi nẻo đường dẫn về thành phố Sydney.
Chúng con cầu xin Chúa.
3. Cầu cho các bạn trẻ tham dự Đại Hội. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần đốt cháy lửa của lòng yêu mến Thiên Chúa và tôn trọng tha nhân, trong lòng các bạn trẻ tham dự Đại Hội, để họ trở thành những chứng nhân đức tin cho Đức Kitô.
Chúng con cầu xin Chúa.
4. Cầu cho các bạn trẻ. Chúng ta cầu xin cho các bạn trẻ, sau khi tham dự Đại Hội Giới Trẻ, về tới nhà, ngọn lửa nhiệt thành yêu mến Chúa và tôn trọng tha nhân sẽ tiếp tục bừng cháy sáng, trong suốt cuộc đời của riêng từng người.
Chúng con cầu xin Chúa.
5. Cầu cho các ân nhân. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho các ân nhân đã làm việc đêm ngày trong suốt một khoảng thời gian dài để Đại Hội Giới Trẻ Sydney năm 2008 trở thành một hiện thực cho giới trẻ của khắp năm châu có dịp quây quần xum họp học hỏi Lời Chúa bên nhau.
Chúng con cầu xin Chúa.
6. Cầu cho các ý riêng. Xin mọi người thinh lặng trong giây phút cầu nguyện cho những ý nguyện riêng tư của mình (Thinh lặng một phút)…
Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ Tế: Lạy Chúa, ngày xưa, bởi lửa trời của Chúa Thánh Linh thiêu đốt, những người môn đệ nhát sợ đã không còn nhát sợ, nhưng hiên ngang bước ra phòng kín làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh. Ngày hôm nay, xin Chúa tuôn đổ ơn phúc thiên đàng xuống trên những lời cầu nguyện mà tuổi trẻ chúng con vừa dâng lên để chúng con cũng được biến đổi, trở thành những chứng nhân niềm tin cho Đức Kitô. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
www.nguyentrungtay.com
Mảnh đất tốt
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
09:24 07/07/2008
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 13, 1-23
Những ruộng lúa, những mảnh đất để gieo hạt lúa luôn phải được chuẩn bị, làm sạch cỏ, cầy nhuyễn đất để hạt giống có thể được vãi gieo không lãng phí, không uổng công. Mà thật vậy, chẳng người nông dân nào lại có thể chịu nổi cái cảnh xem ra lãng phí hạt giống như người nông phu trong đọan Tin Mừng chúng ta nghe đọc ngày Chúa Nhật hôm nay. Một nông dân cần mẫn, biết tính toán sẽ gieo hạt giống vào mảnh đất ông đã dọn sạch cỏ, đã cầy thật nhuyễn đất và ông chắc chắn sẽ thu được mùa lúa tốt tươi. Người nông dân trong Tin Mừng Mt 13, 1-23 cho chúng ta thấy lòng quảng đại của Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban phát những hồng ân dồi dào cho con người, cho mỗi người…
THIÊN CHÚA LUÔN QUẢNG ĐẠI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI:
Bài Tin Mừng diễn tả cảnh người gieo giống xem ra phung phí, nhưng trong chiều sâu thẩm của nó biểu lộ cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người nông dân. Nhưng, cử chỉ này cho thấy thái độ thật quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với con người, đối với chúng ta và đây cũng là thái độ Chúa đòi hỏi con người phải quảng đại đối với nhau. Vâng, tình yêu của Chúa thật vô biên. Con người đã lãnh nhận nơi Người biết bao nhiêu là ân huệ, biết bao nhiêu là hồng ân cao quí, nhưng nhiều khi vô tình hay cố ý, con người đã vô ơn trước tình thương lớn lao của Người. Mặc dù, lãng phí những ân huệ của Chúa, nhưng Người vẫn không so đo, tính toán, không rút lại những ơn huệ Người đã ban phát nhưng không cho con người. Trái ngược với Chúa, con người có thể nhận hoặc từ chối ân sủng của Người, và bóp nghẹt, không cho tình yêu của Người triển nở trong con người chúng ta. Tin Mừng và các bài đọc muốn dạy con người, khi con người đã nhận lãnh nhưng không tình yêu của Thiên Chúa, con người phải biết chia sẻ và quảng đại trao ban những ân huệ cao quí mà con người đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa cho những người khác dù họ có nhận hay không lãnh nhận. Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi ( 1 Ga 4, 18 ). Tình yêu chân thật thì biết đón nhận và trao ban.Bởi vì, có những hạt lúa rơi vào sỏi đá, rơi vào bụi gai, rơi trên đường sẽ chết đi hoặc chim trời ăn mất, nhưng những hạt giống rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, có hạt sinh 30, 60 hoặc 100 hay hơn nữa. Những hành động, những thái độ, những cử chỉ yêu thương được chia sẻ, được trao ban sẽ làm nẩy sinh nhiều hành động yêu thương khác. Nói cho cùng, dù hạt giống yêu thương con người gieo vào bất cứ người nào, gieo vào bất cứ thửa đất nào cũng nẩy sinh những hạt, những hiệu quả tốt đẹp.
ĐÁP TRẢ LẠI TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA:
Tin Mừng và các bài đọc Chúa Nhật 15 năm A, dùng dụ ngôn “ Người gieo giống “ để dạy con người về giá trị của Lời Chúa trong đời sống của người Kitô hữu. Chúa muốn con người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình. Tâm hồn của con người được ví như vệ đường, sỏi đá, bụi gai. Nếu Lời Chúa bị gieo vào sỏi đá, vệ đường, bụi gai, Lời Chúa sẽ không phát triển và khô cằn. Tâm hồn con người là thửa đất tốt: Lời Chúa được gieo vào đó, chắc chắn sau này sẽ là mùa lúa bội thu. Thái độ thành tâm, thiện chí lắng nghe Lời Chúa mới quan trọng, đáp trả, cho đi, chia sẻ mau mắn Lời Chúa mới có giá trị lớn lao. Chúa Giêsu nói: ” Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe “ ( Mt 13, 16 ). Tuy nhiên, nghe và thấm nhuần, hiểu rõ ràng Lời của Chúa không phải là chuyện dễ dàng và càng không dễ dàng tí nào khi con người đem Lời Chúa ra thực hiện trong cuộc sống của mình. Lời Chúa đã có từ lâu và Lời Chúa cũng đã được nghe, được đọc, được cắt nghĩa bằng những lời giảng dạy của các Linh mục, của những nhà truyền giáo, nhưng còn biết bao nhiêu người chưa sẵn sàng đón nhận Lời của Người để Lời của Chúa luôn trổ sinh hoa quả tốt đẹp và để cho những người khác đón nhận Lời, không những người Kitô hữu phải thành tâm lắng nghe Lời, để Lời của Chúa ăn sâu vào tâm hồn con người và rồi người Kitô hữu phải can đảm, kiên trung thực thi Lời của Chúa, nhờ đó những người khác sẽ nhận ra được Lời yêu thương của Chúa đã được người Kitô hữu thực hành và trao ban, chia sẻ cho họ. Đây là sự đáp trả tình yêu: ” Tình yêu đáp trả tình yêu “.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỒNG CON NGƯỜI:
Lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống Kitô hữu là điều tối quan trọng của mọi người Kitô hữu. Mọi người Kitô hữu phải quí trọng kho tàng Lời Chúa như Công Đồng Vaticanô II viết:” Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu “ ( Hiến Chế Về Phụng Vụ, số 51 )
Do đó, người Kitô hữu phải chú ý đến các bài đọc trong thánh lễ. Hãy lắng nghe với đức tin vì khi đọc các bài Thánh Kinh trong thánh lễ là chính Đức Kitô đang nói với mọi người ( Hiến Chế Phụng Vụ, số 56-57 ).
Vì thế, Lời của Chúa sẽ được đón nhận nếu người Kitô hữu mau mắn, nhiệt thành, quảng đại gieo Lời Chúa như: ” Người gieo giống quảng đại là chính Thiên Chúa “.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp tất cả chúng con biết quí trọng Lời Chúa: Lắng nghe và đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của chúng con”.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người gieo giống quảng đại là ai ?
2.Lời Chúa có quan trọng đối với Ông, Bà, Anh Chị Em không ?
3.Tại sao chúng ta phải lắng nghe và thực thi Lời Chúa ?
4.Lời của Chúa trong thánh lễ có quan trọng không ? Khi nghe Lời Chúa trong thánh lễ, ai đang nói với chúng ta ?
2.Người gieo giống quảng đại là ai ?
Mt 13, 1-23
Những ruộng lúa, những mảnh đất để gieo hạt lúa luôn phải được chuẩn bị, làm sạch cỏ, cầy nhuyễn đất để hạt giống có thể được vãi gieo không lãng phí, không uổng công. Mà thật vậy, chẳng người nông dân nào lại có thể chịu nổi cái cảnh xem ra lãng phí hạt giống như người nông phu trong đọan Tin Mừng chúng ta nghe đọc ngày Chúa Nhật hôm nay. Một nông dân cần mẫn, biết tính toán sẽ gieo hạt giống vào mảnh đất ông đã dọn sạch cỏ, đã cầy thật nhuyễn đất và ông chắc chắn sẽ thu được mùa lúa tốt tươi. Người nông dân trong Tin Mừng Mt 13, 1-23 cho chúng ta thấy lòng quảng đại của Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban phát những hồng ân dồi dào cho con người, cho mỗi người…
THIÊN CHÚA LUÔN QUẢNG ĐẠI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI:
Bài Tin Mừng diễn tả cảnh người gieo giống xem ra phung phí, nhưng trong chiều sâu thẩm của nó biểu lộ cử chỉ tung hạt thật quảng đại của người nông dân. Nhưng, cử chỉ này cho thấy thái độ thật quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với con người, đối với chúng ta và đây cũng là thái độ Chúa đòi hỏi con người phải quảng đại đối với nhau. Vâng, tình yêu của Chúa thật vô biên. Con người đã lãnh nhận nơi Người biết bao nhiêu là ân huệ, biết bao nhiêu là hồng ân cao quí, nhưng nhiều khi vô tình hay cố ý, con người đã vô ơn trước tình thương lớn lao của Người. Mặc dù, lãng phí những ân huệ của Chúa, nhưng Người vẫn không so đo, tính toán, không rút lại những ơn huệ Người đã ban phát nhưng không cho con người. Trái ngược với Chúa, con người có thể nhận hoặc từ chối ân sủng của Người, và bóp nghẹt, không cho tình yêu của Người triển nở trong con người chúng ta. Tin Mừng và các bài đọc muốn dạy con người, khi con người đã nhận lãnh nhưng không tình yêu của Thiên Chúa, con người phải biết chia sẻ và quảng đại trao ban những ân huệ cao quí mà con người đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa cho những người khác dù họ có nhận hay không lãnh nhận. Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi ( 1 Ga 4, 18 ). Tình yêu chân thật thì biết đón nhận và trao ban.Bởi vì, có những hạt lúa rơi vào sỏi đá, rơi vào bụi gai, rơi trên đường sẽ chết đi hoặc chim trời ăn mất, nhưng những hạt giống rơi vào đất tốt vẫn nhiều hơn, có hạt sinh 30, 60 hoặc 100 hay hơn nữa. Những hành động, những thái độ, những cử chỉ yêu thương được chia sẻ, được trao ban sẽ làm nẩy sinh nhiều hành động yêu thương khác. Nói cho cùng, dù hạt giống yêu thương con người gieo vào bất cứ người nào, gieo vào bất cứ thửa đất nào cũng nẩy sinh những hạt, những hiệu quả tốt đẹp.
ĐÁP TRẢ LẠI TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA:
Tin Mừng và các bài đọc Chúa Nhật 15 năm A, dùng dụ ngôn “ Người gieo giống “ để dạy con người về giá trị của Lời Chúa trong đời sống của người Kitô hữu. Chúa muốn con người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình. Tâm hồn của con người được ví như vệ đường, sỏi đá, bụi gai. Nếu Lời Chúa bị gieo vào sỏi đá, vệ đường, bụi gai, Lời Chúa sẽ không phát triển và khô cằn. Tâm hồn con người là thửa đất tốt: Lời Chúa được gieo vào đó, chắc chắn sau này sẽ là mùa lúa bội thu. Thái độ thành tâm, thiện chí lắng nghe Lời Chúa mới quan trọng, đáp trả, cho đi, chia sẻ mau mắn Lời Chúa mới có giá trị lớn lao. Chúa Giêsu nói: ” Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe “ ( Mt 13, 16 ). Tuy nhiên, nghe và thấm nhuần, hiểu rõ ràng Lời của Chúa không phải là chuyện dễ dàng và càng không dễ dàng tí nào khi con người đem Lời Chúa ra thực hiện trong cuộc sống của mình. Lời Chúa đã có từ lâu và Lời Chúa cũng đã được nghe, được đọc, được cắt nghĩa bằng những lời giảng dạy của các Linh mục, của những nhà truyền giáo, nhưng còn biết bao nhiêu người chưa sẵn sàng đón nhận Lời của Người để Lời của Chúa luôn trổ sinh hoa quả tốt đẹp và để cho những người khác đón nhận Lời, không những người Kitô hữu phải thành tâm lắng nghe Lời, để Lời của Chúa ăn sâu vào tâm hồn con người và rồi người Kitô hữu phải can đảm, kiên trung thực thi Lời của Chúa, nhờ đó những người khác sẽ nhận ra được Lời yêu thương của Chúa đã được người Kitô hữu thực hành và trao ban, chia sẻ cho họ. Đây là sự đáp trả tình yêu: ” Tình yêu đáp trả tình yêu “.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỒNG CON NGƯỜI:
Lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống Kitô hữu là điều tối quan trọng của mọi người Kitô hữu. Mọi người Kitô hữu phải quí trọng kho tàng Lời Chúa như Công Đồng Vaticanô II viết:” Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu “ ( Hiến Chế Về Phụng Vụ, số 51 )
Do đó, người Kitô hữu phải chú ý đến các bài đọc trong thánh lễ. Hãy lắng nghe với đức tin vì khi đọc các bài Thánh Kinh trong thánh lễ là chính Đức Kitô đang nói với mọi người ( Hiến Chế Phụng Vụ, số 56-57 ).
Vì thế, Lời của Chúa sẽ được đón nhận nếu người Kitô hữu mau mắn, nhiệt thành, quảng đại gieo Lời Chúa như: ” Người gieo giống quảng đại là chính Thiên Chúa “.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp tất cả chúng con biết quí trọng Lời Chúa: Lắng nghe và đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của chúng con”.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người gieo giống quảng đại là ai ?
2.Lời Chúa có quan trọng đối với Ông, Bà, Anh Chị Em không ?
3.Tại sao chúng ta phải lắng nghe và thực thi Lời Chúa ?
4.Lời của Chúa trong thánh lễ có quan trọng không ? Khi nghe Lời Chúa trong thánh lễ, ai đang nói với chúng ta ?
2.Người gieo giống quảng đại là ai ?
Tri ân Mẹ Thiên Quốc thay thân mẫu quá cố
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
12:34 07/07/2008
TRI ÂN MẸ THIÊN QUỐC THAY THÂN MẪU QUÁ CỐ
Nhân chuyến hành hương Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi Pompei (Nam Ý) con muốn thông báo cho Cha Chủ nhiệm nguyệt san ”Mân Côi” biết là thân mẫu con tên Nelia Bovo - góa phụ Rastelli - được Chúa gọi về với Ngài, hưởng thọ 92 tuổi. Khi còn sống, Mẹ con rất kính mến Đức Mẹ Mân Côi Pompei và là độc giả trung thành của tờ ”Mân Côi” của Đền Thánh. Con xin ghi lại đây câu chuyện cuộc đời hiền mẫu quá cố của con.
Ngày 15-3-1930, trong một tai nạn xe hơi, Mẹ con mất đi đứa con trai đầu lòng duy nhất lên 8 tuổi. Phần Mẹ con cũng bị thương nặng. Với trọn lòng tín thác, Mẹ con không ngừng cầu nguyện cùng Đức Mẹ Pompei.
Khi được đưa vào nhà thương, bỗng dưng Mẹ con cảm thấy một luồng khí nóng chuyển thông trong người. Các bác sĩ khám nghiệm và ngạc nhiên cho biết Mẹ con thoát nguy hiểm và hoàn toàn bình phục.
Từ đó, mặc dầu lòng tràn đầy đau đớn vì bị mất đi đứa con trai yêu dấu, Đức Tin Mẹ con ngày càng củng cố, vững mạnh và trưởng thành hơn. Dường như Mẹ con không thể nào mang thai được nữa. Nhưng Mẹ con vẫn không đánh mất lòng trông cậy. Mẹ con vững tin cầu nguyện cùng Đức Mẹ Pompei.
Thời gian sau đó, Mẹ con mang thai và sinh ra con. Để tỏ lòng tri ân Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA Mân Côi Pompei, mặc dầu con còn bé tí teo, Cha Mẹ cũng mang con đi hành hương Đền Thánh để tạ ơn Đức Mẹ.
Những năm kế tiếp, gia đình con trải qua hoàn cảnh lúc vui lúc buồn, nhưng Đức Tin của Mẹ con không dời đổi. Mẹ con vẫn đơn sơ khiêm tốn hoàn toàn tín thác nơi sự phù trợ của Đức Mẹ MARIA, Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Ngày nào Mẹ con cũng đọc trọn Chuỗi Mân Côi 150.
Con thường nghe Mẹ con nói: ”Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa”. Mẹ con cũng trung tín trong việc thi hành thói quen đạo đức tham dự liên tục 9 Thánh Lễ trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, để tỏ lòng tôn kính và phạt tạ Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, như lời Đức Chúa GIÊSU nhắn nhủ. Mẹ con luôn luôn xin Chúa cho Mẹ ơn chết lành. Mẹ con không ngừng lập đi lập lại:
- Sống thánh là điều quan trọng, nhưng chết lành cũng là điều quan trọng nữa.
Đôi khi với giọng nửa đùa nửa thật, Mẹ con nói:
- Mẹ chỉ ước ao lên Thiên Đàng, rồi ngồi ở xó xỉnh nào cũng được, kể cả dưới gầm ghế cũng được!
Con phải thành thật thú nhận rằng, THIÊN CHÚA thỏa mãn mọi lời cầu xin cùng ước nguyện của Mẹ con. Chúa Nhật 9-6-1991 là ngày con không bao giờ quên. Cả hai mẹ con đi lễ nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Mân Côi. Mặc dầu đã 92 tuổi, Mẹ con vẫn còn khá mạnh khoẻ, tỉnh táo. Nhiều khi Mẹ con còn bước đi nhanh hơn con. Mẹ tươi cười nói với con:
- Chúa cho Mẹ đôi chân thật tốt!
Chúng con tham dự Thánh Lễ cử hành lúc 12 giờ trưa. Mẹ con sốt sắng rước Mình Thánh Chúa. Cuối Thánh Lễ, như thường lệ, Mẹ con đến đọc kinh trước ảnh Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, rồi dừng lại trước Nhà Tạm. Trên Nhà Tạm có khắc hình Đức Mẹ Mân Côi.. Một lúc lâu, Mẹ con ngước nhìn lên cao, thở ra vài cái rồi. . gục đầu xuống! Ngay lúc đó, một vị Linh Mục dòng Đa minh tiến đến gần hai Mẹ con con. Đây là vị Linh Mục đến làm phép nhà và chúc lành cho gia đình chúng con, vào dịp Mùa Chay Thánh, cách đây vài năm. Hồi đó, Cha hỏi han và chuyện trò với Mẹ con. Khi Cha ra về, Mẹ nói với con:
- Khi nào Mẹ hấp hối gần chết, con nhớ mời vị Linh Mục dòng Đa Minh này đến ban các Bí Tích sau cùng cho Mẹ.
Giờ đây, chính vị Linh Mục Đa Minh lại bất ngờ xuất hiện, đúng vào giây phút trọng đại cuối cùng của Mẹ con. Cha giơ tay ban phép lành cho Mẹ con. Sau đó, chính Cha chủ sự lễ nghi an táng cho Mẹ con. Thánh Lễ diễn ra thật trang nghiêm thánh thiện, biểu lộ trọn Đức Tin của tín hữu Công Giáo trước cái chết của người thân trong gia đình.
Niềm vui lớn lao của Mẹ con khi còn sống là đi hành hương Đức Mẹ Mân Côi Pompei và dâng cúng tiền của cho Đền Thánh. Giờ đây nối gót Mẹ, con cũng làm những việc lành đạo đức Mẹ con đã làm. Đó là: Lần hạt mỗi ngày trọn Chuỗi Mân Côi 150; hành hương Đức Mẹ Pompei và dâng cúng tiền của cho Đền Thánh..
Chứng từ của bà Anna Maria Rastelli, người Ý.
... ”Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ và cậy trông Chúa, THIÊN CHÚA họ thờ. Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính” (Thánh Vịnh 145,2-8).
(”Il Rosario e la Nuova Pompei”, Gennaio/1994, trang 39)
Nhân chuyến hành hương Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi Pompei (Nam Ý) con muốn thông báo cho Cha Chủ nhiệm nguyệt san ”Mân Côi” biết là thân mẫu con tên Nelia Bovo - góa phụ Rastelli - được Chúa gọi về với Ngài, hưởng thọ 92 tuổi. Khi còn sống, Mẹ con rất kính mến Đức Mẹ Mân Côi Pompei và là độc giả trung thành của tờ ”Mân Côi” của Đền Thánh. Con xin ghi lại đây câu chuyện cuộc đời hiền mẫu quá cố của con.
Ngày 15-3-1930, trong một tai nạn xe hơi, Mẹ con mất đi đứa con trai đầu lòng duy nhất lên 8 tuổi. Phần Mẹ con cũng bị thương nặng. Với trọn lòng tín thác, Mẹ con không ngừng cầu nguyện cùng Đức Mẹ Pompei.
Khi được đưa vào nhà thương, bỗng dưng Mẹ con cảm thấy một luồng khí nóng chuyển thông trong người. Các bác sĩ khám nghiệm và ngạc nhiên cho biết Mẹ con thoát nguy hiểm và hoàn toàn bình phục.
Từ đó, mặc dầu lòng tràn đầy đau đớn vì bị mất đi đứa con trai yêu dấu, Đức Tin Mẹ con ngày càng củng cố, vững mạnh và trưởng thành hơn. Dường như Mẹ con không thể nào mang thai được nữa. Nhưng Mẹ con vẫn không đánh mất lòng trông cậy. Mẹ con vững tin cầu nguyện cùng Đức Mẹ Pompei.
Thời gian sau đó, Mẹ con mang thai và sinh ra con. Để tỏ lòng tri ân Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA Mân Côi Pompei, mặc dầu con còn bé tí teo, Cha Mẹ cũng mang con đi hành hương Đền Thánh để tạ ơn Đức Mẹ.
Những năm kế tiếp, gia đình con trải qua hoàn cảnh lúc vui lúc buồn, nhưng Đức Tin của Mẹ con không dời đổi. Mẹ con vẫn đơn sơ khiêm tốn hoàn toàn tín thác nơi sự phù trợ của Đức Mẹ MARIA, Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Ngày nào Mẹ con cũng đọc trọn Chuỗi Mân Côi 150.
Con thường nghe Mẹ con nói: ”Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa”. Mẹ con cũng trung tín trong việc thi hành thói quen đạo đức tham dự liên tục 9 Thánh Lễ trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, để tỏ lòng tôn kính và phạt tạ Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, như lời Đức Chúa GIÊSU nhắn nhủ. Mẹ con luôn luôn xin Chúa cho Mẹ ơn chết lành. Mẹ con không ngừng lập đi lập lại:
- Sống thánh là điều quan trọng, nhưng chết lành cũng là điều quan trọng nữa.
Đôi khi với giọng nửa đùa nửa thật, Mẹ con nói:
- Mẹ chỉ ước ao lên Thiên Đàng, rồi ngồi ở xó xỉnh nào cũng được, kể cả dưới gầm ghế cũng được!
Con phải thành thật thú nhận rằng, THIÊN CHÚA thỏa mãn mọi lời cầu xin cùng ước nguyện của Mẹ con. Chúa Nhật 9-6-1991 là ngày con không bao giờ quên. Cả hai mẹ con đi lễ nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Mân Côi. Mặc dầu đã 92 tuổi, Mẹ con vẫn còn khá mạnh khoẻ, tỉnh táo. Nhiều khi Mẹ con còn bước đi nhanh hơn con. Mẹ tươi cười nói với con:
- Chúa cho Mẹ đôi chân thật tốt!
Chúng con tham dự Thánh Lễ cử hành lúc 12 giờ trưa. Mẹ con sốt sắng rước Mình Thánh Chúa. Cuối Thánh Lễ, như thường lệ, Mẹ con đến đọc kinh trước ảnh Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, rồi dừng lại trước Nhà Tạm. Trên Nhà Tạm có khắc hình Đức Mẹ Mân Côi.. Một lúc lâu, Mẹ con ngước nhìn lên cao, thở ra vài cái rồi. . gục đầu xuống! Ngay lúc đó, một vị Linh Mục dòng Đa minh tiến đến gần hai Mẹ con con. Đây là vị Linh Mục đến làm phép nhà và chúc lành cho gia đình chúng con, vào dịp Mùa Chay Thánh, cách đây vài năm. Hồi đó, Cha hỏi han và chuyện trò với Mẹ con. Khi Cha ra về, Mẹ nói với con:
- Khi nào Mẹ hấp hối gần chết, con nhớ mời vị Linh Mục dòng Đa Minh này đến ban các Bí Tích sau cùng cho Mẹ.
Giờ đây, chính vị Linh Mục Đa Minh lại bất ngờ xuất hiện, đúng vào giây phút trọng đại cuối cùng của Mẹ con. Cha giơ tay ban phép lành cho Mẹ con. Sau đó, chính Cha chủ sự lễ nghi an táng cho Mẹ con. Thánh Lễ diễn ra thật trang nghiêm thánh thiện, biểu lộ trọn Đức Tin của tín hữu Công Giáo trước cái chết của người thân trong gia đình.
Niềm vui lớn lao của Mẹ con khi còn sống là đi hành hương Đức Mẹ Mân Côi Pompei và dâng cúng tiền của cho Đền Thánh. Giờ đây nối gót Mẹ, con cũng làm những việc lành đạo đức Mẹ con đã làm. Đó là: Lần hạt mỗi ngày trọn Chuỗi Mân Côi 150; hành hương Đức Mẹ Pompei và dâng cúng tiền của cho Đền Thánh..
Chứng từ của bà Anna Maria Rastelli, người Ý.
... ”Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ và cậy trông Chúa, THIÊN CHÚA họ thờ. Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính” (Thánh Vịnh 145,2-8).
(”Il Rosario e la Nuova Pompei”, Gennaio/1994, trang 39)
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:57 07/07/2008
CON LƯƠN ĐEN RA BIỂN
Dòng nước trong con suối nhỏ chảy róc rách, một con lươn nhỏ vui vẻ sống nơi đó, hằng ngày nó bơi từ bờ đông đến bờ tây, từ bờ nam bơi đến bờ bắc, một ngày đi đi lại lại mà không cảm thấy mệt, hơn nữa mỗi ngóc ngách trong con suối nhỏ nó đều thuộc nằm lòng.
Một hôm, nó chán nản với cuộc sống bình thường đơn điệu ấy, con lươn đen nhỏ bèn quyết định ra biển cả nhìn cho biết.
Thế là, nó cáo biệt bạn bè trong suối, đầu tiên đi đến trong một con sông lớn. A ! con sông lớn thật rộng, nhìn không thấy bên kia bờ. Một cơn sóng đập vào, chớp mắt đem con lươn đen nhỏ tung lên đầu ngọn sóng, con lươn nhỏ lợi dụng cơ hội ấy, nhắm hướng bờ sông mà nhìn, bờ sông cách nó rất xa rất xa.
Con lươn đen men theo hướng bờ sông mà bơi, thật không dễ dàng gì để bơi đến bờ. Dần dần, con lươn đen nhỏ thông thạo cách sống của con sông lớn, mỗi ngày nó ở đó luyện tập bơi lội, và cũng kết thân với rất nhiều bạn bè mới, một hôm, nó và bạn bè cùng nhau đi đến biển cả mà chúng nó ngưỡng vọng đã lâu.
Biển cả dậy sóng, đầu nsóng như ngọn núi nhỏ, đập vào làm cho con lươn đen nhỏ và các bạn choáng váng quay cuồng. Ngày hôm sau, khi sóng yên gió lặng, con lươn đen nhỏ mới từ từ xuất đầu đi thăm dò, nó muốn nhìn phong cảnh của bờ biển, nó nhìn khắp bốn phía: Wa, biển lớn sao lại không có giới hạn nhỉ ? Con lươn đen nhỏ có chút không hiểu.
Lúc ấy, trên mặt biển phun lên cột nước, con lươn đen nhỏ nhớ lại lời mẹ đã nói trước đây, biết là cá voi xuất hiện. Nó vội vàng bơi đến hỏi: “Bác cá voi, bác quá lớn, nhất định bác đã bơi khắp biển lớn, biển lớn xét cho cùng lớn bao nhiêu hở bác ?”
- “Ha ha ! Ngốc con, biển lớn là lớn vô biên vô cực, mặc dù so sánh với cháu thì thân thể ta rất to lớn; nhưng so với biển cả thì ta chỉ là một chấm nhỏ trong biển lớn mà thôi, hơn nữa ở trong biển, cá voi thể hình lớn hơn ta thì có rất nhiều !”
- “Thật vậy sao ?” con lươn đen nhỏ không tin nên hỏi.
- “Đương nhiên là thật, vả lại biển cả ngoài việc bao la vô cực ra, bình thường trên mặt biển nhìn thì giống như gió lặng sóng yên, nhưng dưới mặt biển thì sóng cồn dồn dập, có đủ sức nhận chìm tàu thuyền. Nếu so sánh chút xíu, bản lĩnh của một con cá thì thật có hạn.”
Con lươn đen nhỏ hình như hiểu rõ lời của bác cá voi, từ đó về sau, nó bắt đầu phát giác bản lĩnh của mình, và tiến hành khắc khổ nghiên cứu, đem năng lực của mình phát huy đến mức độ tối đa.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
“Người giỏi thì có người giỏi hơn”, chúng ta không thể vì những thành tựu của mình mà tự mãn tự đại rồi khinh dễ người khác. Ngoài ra, bình thường chúng ta nên xây dựng cho mình một lý tưởng vừa xa vừa lớn, một khi đã đạt được mục đích thì phải dũng cảm hướng đến mục đích phía trước cao hơn. Nhưng cần phải ghi nhớ là: trong quá trình theo đuổi lý tưởng thì cần phải lượng sức mà làm, trong phạm vi năng lực của mình cần phải phát huy đến độ tốt nhất, không so sánh mình với người khác, mà là so sánh với bản thân mình. So sánh mình với bản thân nghĩa là mỗi ngày đều tự hỏi: hôm nay tôi đã làm tốt hơn hôm qua chưa, nếu chưa thì cố gắng làm cho tốt, nếu đã làm tốt thì nổ lực làm tốt hơn nữa.
Đem mình so sánh với người khác thì chỉ có kiêu ngạo khi mình trỗi vượt hơn người, hoặc chỉ là tự ti mặc cảm khi mình thua kém người mà thôi, hơn nữa, nếu mình giỏi thì chắc chắn sẽ có người giỏi hơn.
Các em thực hành:
- Không so sánh mình với người khác, nhưng cố gắng làm tốt công việc của mình.
- Luôn cầu nguyện xin Chúa ban ơn để chu toàn công việc của mình.
- Cám ơn Chúa đã ban cho mình có một tài năng để học tập phục vụ người khác.
![]() |
N2T |
Dòng nước trong con suối nhỏ chảy róc rách, một con lươn nhỏ vui vẻ sống nơi đó, hằng ngày nó bơi từ bờ đông đến bờ tây, từ bờ nam bơi đến bờ bắc, một ngày đi đi lại lại mà không cảm thấy mệt, hơn nữa mỗi ngóc ngách trong con suối nhỏ nó đều thuộc nằm lòng.
Một hôm, nó chán nản với cuộc sống bình thường đơn điệu ấy, con lươn đen nhỏ bèn quyết định ra biển cả nhìn cho biết.
Thế là, nó cáo biệt bạn bè trong suối, đầu tiên đi đến trong một con sông lớn. A ! con sông lớn thật rộng, nhìn không thấy bên kia bờ. Một cơn sóng đập vào, chớp mắt đem con lươn đen nhỏ tung lên đầu ngọn sóng, con lươn nhỏ lợi dụng cơ hội ấy, nhắm hướng bờ sông mà nhìn, bờ sông cách nó rất xa rất xa.
Con lươn đen men theo hướng bờ sông mà bơi, thật không dễ dàng gì để bơi đến bờ. Dần dần, con lươn đen nhỏ thông thạo cách sống của con sông lớn, mỗi ngày nó ở đó luyện tập bơi lội, và cũng kết thân với rất nhiều bạn bè mới, một hôm, nó và bạn bè cùng nhau đi đến biển cả mà chúng nó ngưỡng vọng đã lâu.
Biển cả dậy sóng, đầu nsóng như ngọn núi nhỏ, đập vào làm cho con lươn đen nhỏ và các bạn choáng váng quay cuồng. Ngày hôm sau, khi sóng yên gió lặng, con lươn đen nhỏ mới từ từ xuất đầu đi thăm dò, nó muốn nhìn phong cảnh của bờ biển, nó nhìn khắp bốn phía: Wa, biển lớn sao lại không có giới hạn nhỉ ? Con lươn đen nhỏ có chút không hiểu.
Lúc ấy, trên mặt biển phun lên cột nước, con lươn đen nhỏ nhớ lại lời mẹ đã nói trước đây, biết là cá voi xuất hiện. Nó vội vàng bơi đến hỏi: “Bác cá voi, bác quá lớn, nhất định bác đã bơi khắp biển lớn, biển lớn xét cho cùng lớn bao nhiêu hở bác ?”
- “Ha ha ! Ngốc con, biển lớn là lớn vô biên vô cực, mặc dù so sánh với cháu thì thân thể ta rất to lớn; nhưng so với biển cả thì ta chỉ là một chấm nhỏ trong biển lớn mà thôi, hơn nữa ở trong biển, cá voi thể hình lớn hơn ta thì có rất nhiều !”
- “Thật vậy sao ?” con lươn đen nhỏ không tin nên hỏi.
- “Đương nhiên là thật, vả lại biển cả ngoài việc bao la vô cực ra, bình thường trên mặt biển nhìn thì giống như gió lặng sóng yên, nhưng dưới mặt biển thì sóng cồn dồn dập, có đủ sức nhận chìm tàu thuyền. Nếu so sánh chút xíu, bản lĩnh của một con cá thì thật có hạn.”
Con lươn đen nhỏ hình như hiểu rõ lời của bác cá voi, từ đó về sau, nó bắt đầu phát giác bản lĩnh của mình, và tiến hành khắc khổ nghiên cứu, đem năng lực của mình phát huy đến mức độ tối đa.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Gợi ý:
Các em thân mến,
“Người giỏi thì có người giỏi hơn”, chúng ta không thể vì những thành tựu của mình mà tự mãn tự đại rồi khinh dễ người khác. Ngoài ra, bình thường chúng ta nên xây dựng cho mình một lý tưởng vừa xa vừa lớn, một khi đã đạt được mục đích thì phải dũng cảm hướng đến mục đích phía trước cao hơn. Nhưng cần phải ghi nhớ là: trong quá trình theo đuổi lý tưởng thì cần phải lượng sức mà làm, trong phạm vi năng lực của mình cần phải phát huy đến độ tốt nhất, không so sánh mình với người khác, mà là so sánh với bản thân mình. So sánh mình với bản thân nghĩa là mỗi ngày đều tự hỏi: hôm nay tôi đã làm tốt hơn hôm qua chưa, nếu chưa thì cố gắng làm cho tốt, nếu đã làm tốt thì nổ lực làm tốt hơn nữa.
Đem mình so sánh với người khác thì chỉ có kiêu ngạo khi mình trỗi vượt hơn người, hoặc chỉ là tự ti mặc cảm khi mình thua kém người mà thôi, hơn nữa, nếu mình giỏi thì chắc chắn sẽ có người giỏi hơn.
Các em thực hành:
- Không so sánh mình với người khác, nhưng cố gắng làm tốt công việc của mình.
- Luôn cầu nguyện xin Chúa ban ơn để chu toàn công việc của mình.
- Cám ơn Chúa đã ban cho mình có một tài năng để học tập phục vụ người khác.
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:59 07/07/2008
Chương 15
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 40)
CẦU NGUYỆN (1)
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 40)
CẦU NGUYỆN
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 40)
CẦU NGUYỆN (1)
“Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 40)
![]() |
N2T |
1. Cầu nguyện là sức mạnh mà chúng ta phải dựa vào.
(Thánh John Bosco)Bị Chết Vì Giận Dữ
Phó tế GB Nguyễn Văn Định
23:22 07/07/2008
Sống Tỉnh Thức # 31:
BỊ CHẾT VÌ GIẬN DỮ
Vào thế kỷ 18, ở Anh quốc có một bác sĩ nổi tiếng về khoa phẫu thuật, tên là John Hunter. Ông được Anh Hoàng George Đệ III chọn làm bác sĩ của Hoàng gia. Nhưng ông thường bị đau nhói trong ngực.
Sau khi bị khám phá ra mình bị chứng đau thắt ngực (angina pectoris) và nhận thấy mỗi khi nổi giận thì tim đau nhói, bác sĩ Hunter đã than rằng: “Mạng sống của tôi nằm trong tay người nào cố tình chọc cho tôi tức giận.” Lời than này trở thành sự thật, vì trong một cuộc họp của ban quản trị bệnh viện St. George ở Luân đôn, bác sĩ Hunter nổi nóng, lớn tiếng cãi cọ với một thành viên ban quản trị, rồi tức giận bỏ phòng họp đứng dậy ra đi.
Nhưng chỉ chỉ vừa qua đến phòng bên cạnh, là ông đã lăn ra chết.
* Một phút hồi tâm: Thế giới y học đã nói nhiều về tương quan giữa những cảm xúc giận dữ và sức khỏe. Trong lãnh vực tâm linh, sự phẫn nộ không phải là tội lỗi, vì chính Chúa Giêsu cũng có sự phẫn nộ khi Ngài vào đền thờ thấy họ buôn bán; nhưng phẫn nộ điều gì và có hành động thế nào, đó mới là vấn đề. Khi Ca-in ganh tức với A-ben vì của lễ không được chấp nhận, Đức chúa hỏi Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt?” (St. 4, 6)
Thường thì ta giận không chính đáng. Vì không nhìn thấy nguyên nhân của sự việc, nên ta chỉ nhìn theo chiều hướng riêng của mình. Mỗi lúc giận dữ, bạn hãy bình tâm cầu nguyện và nhớ Lời Chúa nói: “Ngươi giận có nên không?” Có một cơn giận mà không phạm tội, đó là cơn giận với tội lỗi. Nên có một hành động bày tỏ được cơn giận bởi tình yêu, cơn giận của lòng thương xót như Chúa.
Thánh Phalô khuyên: “Chúng ta mang nợ, không phải mang nợ với tính xác thịt, để phải sống theo xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ chết…(Rom 8,12-13).” Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ là…ghen tương, nóng giận tranh chấp chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén…”(Galat 5, 19)
Thánh Giacôbê cũng dạy: anh em nên biết rằng: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính.” (Gc 1, 19-20)
Phó tế: GB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
BỊ CHẾT VÌ GIẬN DỮ
Vào thế kỷ 18, ở Anh quốc có một bác sĩ nổi tiếng về khoa phẫu thuật, tên là John Hunter. Ông được Anh Hoàng George Đệ III chọn làm bác sĩ của Hoàng gia. Nhưng ông thường bị đau nhói trong ngực.
Sau khi bị khám phá ra mình bị chứng đau thắt ngực (angina pectoris) và nhận thấy mỗi khi nổi giận thì tim đau nhói, bác sĩ Hunter đã than rằng: “Mạng sống của tôi nằm trong tay người nào cố tình chọc cho tôi tức giận.” Lời than này trở thành sự thật, vì trong một cuộc họp của ban quản trị bệnh viện St. George ở Luân đôn, bác sĩ Hunter nổi nóng, lớn tiếng cãi cọ với một thành viên ban quản trị, rồi tức giận bỏ phòng họp đứng dậy ra đi.
Nhưng chỉ chỉ vừa qua đến phòng bên cạnh, là ông đã lăn ra chết.
* Một phút hồi tâm: Thế giới y học đã nói nhiều về tương quan giữa những cảm xúc giận dữ và sức khỏe. Trong lãnh vực tâm linh, sự phẫn nộ không phải là tội lỗi, vì chính Chúa Giêsu cũng có sự phẫn nộ khi Ngài vào đền thờ thấy họ buôn bán; nhưng phẫn nộ điều gì và có hành động thế nào, đó mới là vấn đề. Khi Ca-in ganh tức với A-ben vì của lễ không được chấp nhận, Đức chúa hỏi Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt?” (St. 4, 6)
Thường thì ta giận không chính đáng. Vì không nhìn thấy nguyên nhân của sự việc, nên ta chỉ nhìn theo chiều hướng riêng của mình. Mỗi lúc giận dữ, bạn hãy bình tâm cầu nguyện và nhớ Lời Chúa nói: “Ngươi giận có nên không?” Có một cơn giận mà không phạm tội, đó là cơn giận với tội lỗi. Nên có một hành động bày tỏ được cơn giận bởi tình yêu, cơn giận của lòng thương xót như Chúa.
Thánh Phalô khuyên: “Chúng ta mang nợ, không phải mang nợ với tính xác thịt, để phải sống theo xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ chết…(Rom 8,12-13).” Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ là…ghen tương, nóng giận tranh chấp chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén…”(Galat 5, 19)
Thánh Giacôbê cũng dạy: anh em nên biết rằng: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính.” (Gc 1, 19-20)
Phó tế: GB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha kêu gọi G8 khắc phục đói khát và nghèo khổ khốn cùng.
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
08:51 07/07/2008
Castel Gandolfo (AsiaNews) - Trong buổi đọc Kinh Truyền tin “ngày hè” đầu tiên ở Dinh thự Castel Gandolfo,
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đưa ra lời kêu gọi đến các vị lãnh đạo thế giới đang họp Hội nghị thượng đỉnh G8 ở Nhật Bản: “Họ cần đặt trọng tâm vào việc cân nhắc những nhu cầu của những người dân bần cùng nhất, nghèo khổ nhất, ngày nay những người dễ bị tổn thương này ngày càng gia tăng vì tình trạng đầu cơ và hỗn loạn tài chính và những ảnh hưởng tai hại của nó về giá cả lương thực và năng lượng. Tôi hy vọng rằng tính rộng lượng và tầm nhìn sâu rộng có thể giúp các nhà lãnh đạo có khả năng quyết định việc tái khởi động một quy trình phát triển toàn diện hợp lý nhằm bảo vệ phẩm giá con người”. Đức Thánh Cha nhắc lại rằng trong những ngày gần đây đã có những lên tiếng về cuộc gặp thượng đỉnh này (gồm cả một số hội đồng giám mục). Đức Giáo Hoàng cũng bày tỏ sự hợp nhất của ngài “với lời kêu gọi cấp bách này để bày tỏ tình tình liên đới”, để cùng với họ yêu cầu khối G8 can đảm đưa ra “mọi giải pháp cần thiết để khắc phục những tai họa cùng cực của nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, thất học, vốn vẫn còn làm khổ nhiều người trong nhân loại”.
Nhưng trước đó, Đức Thánh Cha lại suy tư trước tiên hướng về Ngày Quốc tế Giới trẻ (WYD) lần thứ 23 sẽ được cử hành vào giữa tháng Bảy này ở Sydney. Đức Thánh Cha sẽ đến Úc vào ngày 12 tháng Bảy và sẽ tham dự vào các sự kiện chính của WYD: lễ tiếp đón cử hành vào ngày 15 tháng Bảy, đêm canh thức vào thứ Bảy 19, và cử hành Thánh Lễ vào ngày Chúa Nhật 20. Đức Thánh Cha yêu cầu người Công Giáo hãy xem bản thân mình như là người tham dự vào giai đoạn mới này của cuộc hành hương vĩ đại của giới trẻ khắp thế giới, được khởi đầu từ năm 1985 bởi vị Tôi Tớ Thiên Chúa Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha nói thêm: WYD sắp tới hứa hẹn một Lễ Hiện xuống mới: về hiệu quả, đã có một năm để các cộng đoàn Kitô giáo chuẩn bị theo đường hướng mà cha vạch ra trong thư về chủ đề đại hội, “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Đây là lời hứa mà Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Người sau khi sống lại, và lời hứa đó vẫn luôn có giá trị và thích hợp trong Giáo Hội: Chúa Thánh Thần, được chờ đợi và chào đón trong lời cầu nguyện, truyền cho các tín hữu năng lực làm chứng cho Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Thổi hơi vào những cánh buồm Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy Giáo Hội lui về “trong sâu thẳm”, từ thế hệ này qua thế hệ khác, để thực hiện tất cả những điều tốt lành của tình yêu Thiên Chúa, mạc khải hoàn toàn nơi Chúa Giêsu Kitô, người đã chết và sống lại vì chúng ta. Cha chắc rằng từ bất kỳ phương nào trên thế giới, người Công Giáo cũng sẽ hiệp nhất với Cha, với giới trẻ họp nhau ở Cenacle, ở Sysney, khẩn cầu mãnh liệt lên Chúa Thánh Thần, để Ngài tuôn đổ ánh sáng nội tâm cho các tâm hồn, bằng tình yêu dành cho Thiên Chúa, cho người lân cận, với hành động can trường nhằm giới thiệu thông điệp bất diệt của Chúa Giêsu bằng các ngôn ngữ và các nền văn hóa khác nhau”.
Sau khi cầu nguyện với Đức Maria và sau khi đưa ra lời kêu gọi gở tới các nhà lãnh đạo G8, Đức Thánh Cha đã chào đó hàng tá các trẻ nhỏ “bằng lòng yêu mến” (trong số đó có nhiều trẻ em Trung Quốc) và các bà mẹ chúng đến từ Tổ chức Soong Ching-ling của Ý. Đức Thánh Cha nói thêm: “Tình yêu, hòa thuận, hòa hợp và liên đới là những giá trị mà anh chị em muốn thăng tiếng ở Trung Quốc và các nước khác. Nghệ thuật và văn hóa có thể đoàn kết con người lại: trẻ em đại diện cho tương lai của gia đình nhân loại và vì vậy chúng được mời gọi xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, nhân bản hơn”.
Trong diễn từ của Đức Thánh Cha, ngài cũng khác gửi một thông điệp của tình huynh đệ đến với toàn thể người dân Trung Quốc: “Sự hiện diện của anh chị em cho tôi có cơ hội gửi lời chúc bình an và vui vẻ đến tất cả những người cùng trang lứa của anh em ở Trung Quốc và trên thế giới”. Cuối cùng ngài nói thêm bằng tiếng Hoa: “Nimen hao!” (你们好!- Xin chào!)

![]() |
Lãnh đạo 8 cường quốc họp Thượng đỉnh tại Nhật |
Đức Thánh Cha nói thêm: WYD sắp tới hứa hẹn một Lễ Hiện xuống mới: về hiệu quả, đã có một năm để các cộng đoàn Kitô giáo chuẩn bị theo đường hướng mà cha vạch ra trong thư về chủ đề đại hội, “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Đây là lời hứa mà Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Người sau khi sống lại, và lời hứa đó vẫn luôn có giá trị và thích hợp trong Giáo Hội: Chúa Thánh Thần, được chờ đợi và chào đón trong lời cầu nguyện, truyền cho các tín hữu năng lực làm chứng cho Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Thổi hơi vào những cánh buồm Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy Giáo Hội lui về “trong sâu thẳm”, từ thế hệ này qua thế hệ khác, để thực hiện tất cả những điều tốt lành của tình yêu Thiên Chúa, mạc khải hoàn toàn nơi Chúa Giêsu Kitô, người đã chết và sống lại vì chúng ta. Cha chắc rằng từ bất kỳ phương nào trên thế giới, người Công Giáo cũng sẽ hiệp nhất với Cha, với giới trẻ họp nhau ở Cenacle, ở Sysney, khẩn cầu mãnh liệt lên Chúa Thánh Thần, để Ngài tuôn đổ ánh sáng nội tâm cho các tâm hồn, bằng tình yêu dành cho Thiên Chúa, cho người lân cận, với hành động can trường nhằm giới thiệu thông điệp bất diệt của Chúa Giêsu bằng các ngôn ngữ và các nền văn hóa khác nhau”.
Sau khi cầu nguyện với Đức Maria và sau khi đưa ra lời kêu gọi gở tới các nhà lãnh đạo G8, Đức Thánh Cha đã chào đó hàng tá các trẻ nhỏ “bằng lòng yêu mến” (trong số đó có nhiều trẻ em Trung Quốc) và các bà mẹ chúng đến từ Tổ chức Soong Ching-ling của Ý. Đức Thánh Cha nói thêm: “Tình yêu, hòa thuận, hòa hợp và liên đới là những giá trị mà anh chị em muốn thăng tiếng ở Trung Quốc và các nước khác. Nghệ thuật và văn hóa có thể đoàn kết con người lại: trẻ em đại diện cho tương lai của gia đình nhân loại và vì vậy chúng được mời gọi xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, nhân bản hơn”.
Trong diễn từ của Đức Thánh Cha, ngài cũng khác gửi một thông điệp của tình huynh đệ đến với toàn thể người dân Trung Quốc: “Sự hiện diện của anh chị em cho tôi có cơ hội gửi lời chúc bình an và vui vẻ đến tất cả những người cùng trang lứa của anh em ở Trung Quốc và trên thế giới”. Cuối cùng ngài nói thêm bằng tiếng Hoa: “Nimen hao!” (你们好!- Xin chào!)
Thi hài của Chân Phước Pier Giorgio Frassati đã đến Sydney nhân ngày WYD 2008
Anthony Lê
11:09 07/07/2008
Thi hài của Chân Phước Pier Giorgio Frassati đã đến Sydney nhân ngày WYD 2008
SYDNEY, Úc (CNS) -- Thi hài của Chân Phước Pier Giorgio Frassati đã đến Sydney, Úc Châu nhân Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008, đánh dấu lần đầu tiên thi hài của một Vị Chân Phước rời khỏi thành Turin, Ý Quốc, kể từ khi ngài qua đời vào năm 1925.
Chân Phước Pier Giorgio được mọi người tôn kính vì tính hoạt bác trong các hoạt động xã hội, yêu chuộng thể thao, có đầu óc hài hước, và tinh thần bao dung rộng lượng đối với mọi người.
Đức Giám Mục Phụ Tá Anthony Fisher của Tổng Giáo Phận Sydney nói cho các giáo dân tại Giáo Xứ Thánh Bênêđíctô ở Sydney biết về Vị Chân Phước này rằng: "Ngài là một người rất yêu mến thể thao, yêu thích môn đua ngựa, leo núi, và hay nói ra những câu hài hước rất thực tế."
Thi hài của Vị Chân Phước này được bỏ trong hòm bọc bằng kẽm và đã đến Sydney vào ngày 2 tháng 7 vừa qua.
Vị Chân Phước sinh ra trong một gia đình giàu có và đầy thế lực, thế nhưng gia đình đó lại là một gia đình ngoại giáo. Vào năm 17 tuổi, Chân Phước Pier Giorgio gia nhập vàp Hội Dòng Thánh Vinh Sơn để cam kết dùng tất cả mọi thời gian rãnh rổi của mình để chăm sóc cho những người bệnh và những người sa cơ lỡ bước. Là một nhà hoạt động xã hội rất hăng say, ngài đã tham gia vào các tổ chức của sinh viên, chống đối lại chủ nghĩa phát xít và thành lập ra một tờ báo xuất bản mỗi ngày.
Những hành động bác ái của ngài được ghi nhận qua việc ngài đem trao hết số tiền mà mình nhận được lúc tốt nghiệp trung học để giúp cho một bà lão bị đuổi ra khỏi căn hộ và hổ trợ cho một bà thiếu phụ với ba đứa con nhỏ đang bị ốm đau. Vào năm 1925, người thanh niên trẻ tuổi Pier Giorgio bị căn bệnh bại liệt quái ác tấn công, mà các bác sĩ cho rằng ngài đã nhiễm từ những người bệnh mà ngài đã chăm sóc. Ngài đã qua đời hưởng thọ 24 tuổi, sau 5 ngày bị căn bệnh tấn công.
Thi thể của Vị Chân Phước trẻ tuổi này sẽ được đặt tại Giáo Xứ Thánh Bênêđíctô (St. Benedict Church) mãi cho đến ngày 10 tháng 7, rồi sau đó sẽ được di chuyển đến Vương Cung Thánh Đường St. Mary, một điểm tập trung có tính lịch sử cho các khách hành hương Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 đến viếng ngài, đặc biệt là các bạn trẻ khắp năm châu.
![]() |
Blessed Pier Giorgio Frassati |
Chân Phước Pier Giorgio được mọi người tôn kính vì tính hoạt bác trong các hoạt động xã hội, yêu chuộng thể thao, có đầu óc hài hước, và tinh thần bao dung rộng lượng đối với mọi người.
Đức Giám Mục Phụ Tá Anthony Fisher của Tổng Giáo Phận Sydney nói cho các giáo dân tại Giáo Xứ Thánh Bênêđíctô ở Sydney biết về Vị Chân Phước này rằng: "Ngài là một người rất yêu mến thể thao, yêu thích môn đua ngựa, leo núi, và hay nói ra những câu hài hước rất thực tế."
Thi hài của Vị Chân Phước này được bỏ trong hòm bọc bằng kẽm và đã đến Sydney vào ngày 2 tháng 7 vừa qua.
Vị Chân Phước sinh ra trong một gia đình giàu có và đầy thế lực, thế nhưng gia đình đó lại là một gia đình ngoại giáo. Vào năm 17 tuổi, Chân Phước Pier Giorgio gia nhập vàp Hội Dòng Thánh Vinh Sơn để cam kết dùng tất cả mọi thời gian rãnh rổi của mình để chăm sóc cho những người bệnh và những người sa cơ lỡ bước. Là một nhà hoạt động xã hội rất hăng say, ngài đã tham gia vào các tổ chức của sinh viên, chống đối lại chủ nghĩa phát xít và thành lập ra một tờ báo xuất bản mỗi ngày.
Những hành động bác ái của ngài được ghi nhận qua việc ngài đem trao hết số tiền mà mình nhận được lúc tốt nghiệp trung học để giúp cho một bà lão bị đuổi ra khỏi căn hộ và hổ trợ cho một bà thiếu phụ với ba đứa con nhỏ đang bị ốm đau. Vào năm 1925, người thanh niên trẻ tuổi Pier Giorgio bị căn bệnh bại liệt quái ác tấn công, mà các bác sĩ cho rằng ngài đã nhiễm từ những người bệnh mà ngài đã chăm sóc. Ngài đã qua đời hưởng thọ 24 tuổi, sau 5 ngày bị căn bệnh tấn công.
Thi thể của Vị Chân Phước trẻ tuổi này sẽ được đặt tại Giáo Xứ Thánh Bênêđíctô (St. Benedict Church) mãi cho đến ngày 10 tháng 7, rồi sau đó sẽ được di chuyển đến Vương Cung Thánh Đường St. Mary, một điểm tập trung có tính lịch sử cho các khách hành hương Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 đến viếng ngài, đặc biệt là các bạn trẻ khắp năm châu.
Những tâm tình của ĐTC Bênêđitô XVI đối với Đức Bartolomêô I,
Đặng Thế Dũng
16:56 07/07/2008
VATICAN - Lúc 12 giờ trưa thứ bảy 28 tháng 6, trước lúc khai mạc Năm Thánh Phaolô, ĐTC Bênêđitô XVI đã tiếp Đức Thượng Phụ Bartolomeo I, giáo chủ chính thống giáo Costantinopoli, cùng với phái đoàn, đến Roma để tham dự lễ khai mạc Năm Thánh Phaolô, vừa đồng thời dự lễ trọng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, bổn mạng của Giáo Hội công giáo Roma..
Trong buổi tiếp kiến đặc biệt này, ĐTC Bênêđitô XVI đã đọc một bài diễn văn ngắn nói lên những tâm tình của ngài đối với Đức Thượng Phụ Bartolomeo nói riêng, và đối với công cuộc đại kết nhắm tiến tới sự hiệp nhất trọn vẹn mọi người kitô. Kính mời quý vị và các bạn theo dõi bài diễn văn này:
Kính thưa ngài thánh đức,
Với niềm vui sâu xa và chân thành, Tôi xin kính chào ngài và phái đoàn, bằng những lời Kinh Thánh trích từ thư II Phêrô, chương 1 câu 1-2, như sau: “Kính gởi những người đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi, nhờ sự công chính của Thiên Chúa chúng ta và Đấng cứu độ là Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc dồi dào ân sủng và bình an cho anh em, trong sự hiểu biết Thiên Chúa và Chúa Giêsu, Chúa chúng ta” (2 Pr 1, 1-2). Việc mừng lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, Bổn Mạng của Giáo Hội Roma, cũng như lễ mừng Thánh Anrê, Bổn mạng của Giáo Hội Costantinopoli, hai lễ mừng này hằng năm cho chúng ta dịp viếng thăm nhau; và những lần viếng thăm này luôn quan trọng, là dịp để trao đổi với nhau trong tình huynh đệ và để cầu nguyện chung với nhau. Như thế được tăng thêm sự hiểu biết nhau; ước chi những sáng kiến được hoà hợp với nhau, và gia tăng thêm niềm hy vọng đang tác động chúng ta, để có thể mau đạt tới sự hiệp nhất trọn vẹn, trong sự tuân phục mệnh lệnh của Chúa.
Năm nay, tại Roma, cùng với lễ mừng bổn mạng, còn có việc khai mạc Năm Thánh Phaolô, mà tôi đã muốn thiết lập, để kỷ niệm hai ngàn năm Thánh Phaolô sinh ra, với ý định cổ võ suy tư mỗi ngày một sau xa hơn, về phần gia tài thần học và tu đức mà Thánh Tông Đồ của các Dân Ngoại để lại cho Giáo Hội, cùng với công việc rao giảng phúc âm rộng rãi và sâu xa. Tôi cũng vui mừng được biết rằng chính Ngài cũng đã thiết lập Năm Thánh Phaolô. Sự trùng hợp tốt đẹp này làm nổi bật những gốc rễ của ơn gọi Kitô của chúng ta và làm nổi bật sự hoà hợp có ý nghĩa trong những tâm tình và những dấn thân mục vụ.
Vì thế, tôi dâng lời cảm tạ lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng hướng dẫn chúng ta bước tới sự hiệp nhất, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nhắc chúng ta nhớ lại rằng sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả mọi người Kitô, gặp được nền tảng của nó trong “một Chúa, một đức tin và một phép Rửa” (Eph 4,5). Đức Tin chung của chúng ta, Bí Tích Rửa Tội duy nhất để ban ơn tha tội, và sự vâng phục vào một Chúa Cứu Thế, cả ba điều này có thể được diễn tả trong chiều kích cộng đoàn và Giáo Hội. “Một thân thể duy nhất và một Chúa ThánhThần”, Thánh Tông Đồ của các dân ngoại đã quả quyết như thế, và ngài còn thêm: “Chỉ có một niềm hy vọng mà anh em được kêu gọi đến lãnh nhận.” (Eph 4,4). Ngoài ra, Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta một con đường chắc chắn, để duy trì sự hiệp nhất cũng như để tái tạo sự hiệp thông, trong trường hợp gặp chia rẽ. Sắc Lệnh về Đại Kết của Công Đồng Vaticanô II đã lấy lại chỉ dẫn của thánh Phaolô và đề nghị chỉ dẫn này trong khung cảnh của sự dấn thân đại kết, vừa nhắc lại những lời cô động ý nghĩa và luôn luôn có tính thời sự, được trích từ thư Ephêsô như sau: “Vậy, tôi đây, người tù của Chúa Kitô, tôi khuyến khích anh em hãy cư xử một cách xứng đáng với ơn gọi anh em đã lãnh nhận, với hết lòng khiêm cung, dịu dàng và kiên trì, vừa nâng đỡ nhau trong tình yêu thương, vừa cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, nhờ mối dây hoà bình” (Eph 4, 1-3).
Với những người Kitô tại Corintô, đang có những bất đồng xảy ra, Thánh Phaolô không ngại nhắc nhở cách mạnh mẽ, ngõ hầu họ trở nên đồng tâm trong lời nói, cất đi những chia rẽ giữa họ và vun trồng sự hiệp nhất trọn vẹn trong tư tưởng và trong ý hướng.” (x. 1Cr 1,10). Trong thế giới chúng ta, tuy càng ngày càng được củng cố hiện tượng toàn cầu hoá, nhưng vẫn còn tiếp tục những chia rẽ và những xung đột, con người ý thức về nhu cầu càng ngày càng mạnh mẽ muốn có được sự chắc chắn và hoà bình. Nhưng đồng thời con người cảm thấy mình bị lạc lối và dường như bị mê hoặc bởi một thứ văn hoá chủ trương hưởng thụ và tương đối hoá mọi sự, một thứ văn hoá gieo rắc nghi ngờ về sự hiện hữu của sự thật. Những chỉ dẫn của thánh Phaolô về vấn đề này thật là phù hợp để khuyến khích những cố gắng nhằm đi tìm sự hiệp nhất trọn vẹn giữa những người Kitô; sự hiệp nhất này là điều hết sức cần thiết để cống hiến cho con người của ngàn năm thứ ba, một chứng tá mỗi ngày một chiếu sáng hơn cho Chúa Kitô, Đấng là Đường, là sự Thật, và là sự Sống. Chỉ trong Chúa Kitô và trong Tin Mừng của Người, mà nhân loại có thể gặp được câu trả lời cho những chờ đợi sâu xa nhất của mình.
Ước chi Năm Thánh Phaolô, mà chiều nay chúng ta sẽ khai mạc cách long trọng, giúp cho dân Kitô canh tân sự dấn thân đại kết, và ước chi được gia tăng những sáng kiến chung tiến đến sự hiệp thông giữa tất cả mọi môn đệ của Chúa Kitô.
Sự hiện diện của Ngài nơi đây hôm nay, chắc chắn là một dấu chỉ đầy khích lệ cho bước tiến trên con đường này. Vì thế, một lần nữa tôi xin nói lên với tất cả anh em niềm vui của tôi, trong khi chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa lời cầu nguyện đầy tâm tình tri ân.
Trong buổi tiếp kiến đặc biệt này, ĐTC Bênêđitô XVI đã đọc một bài diễn văn ngắn nói lên những tâm tình của ngài đối với Đức Thượng Phụ Bartolomeo nói riêng, và đối với công cuộc đại kết nhắm tiến tới sự hiệp nhất trọn vẹn mọi người kitô. Kính mời quý vị và các bạn theo dõi bài diễn văn này:
Kính thưa ngài thánh đức,
Với niềm vui sâu xa và chân thành, Tôi xin kính chào ngài và phái đoàn, bằng những lời Kinh Thánh trích từ thư II Phêrô, chương 1 câu 1-2, như sau: “Kính gởi những người đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi, nhờ sự công chính của Thiên Chúa chúng ta và Đấng cứu độ là Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc dồi dào ân sủng và bình an cho anh em, trong sự hiểu biết Thiên Chúa và Chúa Giêsu, Chúa chúng ta” (2 Pr 1, 1-2). Việc mừng lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, Bổn Mạng của Giáo Hội Roma, cũng như lễ mừng Thánh Anrê, Bổn mạng của Giáo Hội Costantinopoli, hai lễ mừng này hằng năm cho chúng ta dịp viếng thăm nhau; và những lần viếng thăm này luôn quan trọng, là dịp để trao đổi với nhau trong tình huynh đệ và để cầu nguyện chung với nhau. Như thế được tăng thêm sự hiểu biết nhau; ước chi những sáng kiến được hoà hợp với nhau, và gia tăng thêm niềm hy vọng đang tác động chúng ta, để có thể mau đạt tới sự hiệp nhất trọn vẹn, trong sự tuân phục mệnh lệnh của Chúa.
Năm nay, tại Roma, cùng với lễ mừng bổn mạng, còn có việc khai mạc Năm Thánh Phaolô, mà tôi đã muốn thiết lập, để kỷ niệm hai ngàn năm Thánh Phaolô sinh ra, với ý định cổ võ suy tư mỗi ngày một sau xa hơn, về phần gia tài thần học và tu đức mà Thánh Tông Đồ của các Dân Ngoại để lại cho Giáo Hội, cùng với công việc rao giảng phúc âm rộng rãi và sâu xa. Tôi cũng vui mừng được biết rằng chính Ngài cũng đã thiết lập Năm Thánh Phaolô. Sự trùng hợp tốt đẹp này làm nổi bật những gốc rễ của ơn gọi Kitô của chúng ta và làm nổi bật sự hoà hợp có ý nghĩa trong những tâm tình và những dấn thân mục vụ.
Vì thế, tôi dâng lời cảm tạ lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng hướng dẫn chúng ta bước tới sự hiệp nhất, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nhắc chúng ta nhớ lại rằng sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả mọi người Kitô, gặp được nền tảng của nó trong “một Chúa, một đức tin và một phép Rửa” (Eph 4,5). Đức Tin chung của chúng ta, Bí Tích Rửa Tội duy nhất để ban ơn tha tội, và sự vâng phục vào một Chúa Cứu Thế, cả ba điều này có thể được diễn tả trong chiều kích cộng đoàn và Giáo Hội. “Một thân thể duy nhất và một Chúa ThánhThần”, Thánh Tông Đồ của các dân ngoại đã quả quyết như thế, và ngài còn thêm: “Chỉ có một niềm hy vọng mà anh em được kêu gọi đến lãnh nhận.” (Eph 4,4). Ngoài ra, Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta một con đường chắc chắn, để duy trì sự hiệp nhất cũng như để tái tạo sự hiệp thông, trong trường hợp gặp chia rẽ. Sắc Lệnh về Đại Kết của Công Đồng Vaticanô II đã lấy lại chỉ dẫn của thánh Phaolô và đề nghị chỉ dẫn này trong khung cảnh của sự dấn thân đại kết, vừa nhắc lại những lời cô động ý nghĩa và luôn luôn có tính thời sự, được trích từ thư Ephêsô như sau: “Vậy, tôi đây, người tù của Chúa Kitô, tôi khuyến khích anh em hãy cư xử một cách xứng đáng với ơn gọi anh em đã lãnh nhận, với hết lòng khiêm cung, dịu dàng và kiên trì, vừa nâng đỡ nhau trong tình yêu thương, vừa cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, nhờ mối dây hoà bình” (Eph 4, 1-3).
Với những người Kitô tại Corintô, đang có những bất đồng xảy ra, Thánh Phaolô không ngại nhắc nhở cách mạnh mẽ, ngõ hầu họ trở nên đồng tâm trong lời nói, cất đi những chia rẽ giữa họ và vun trồng sự hiệp nhất trọn vẹn trong tư tưởng và trong ý hướng.” (x. 1Cr 1,10). Trong thế giới chúng ta, tuy càng ngày càng được củng cố hiện tượng toàn cầu hoá, nhưng vẫn còn tiếp tục những chia rẽ và những xung đột, con người ý thức về nhu cầu càng ngày càng mạnh mẽ muốn có được sự chắc chắn và hoà bình. Nhưng đồng thời con người cảm thấy mình bị lạc lối và dường như bị mê hoặc bởi một thứ văn hoá chủ trương hưởng thụ và tương đối hoá mọi sự, một thứ văn hoá gieo rắc nghi ngờ về sự hiện hữu của sự thật. Những chỉ dẫn của thánh Phaolô về vấn đề này thật là phù hợp để khuyến khích những cố gắng nhằm đi tìm sự hiệp nhất trọn vẹn giữa những người Kitô; sự hiệp nhất này là điều hết sức cần thiết để cống hiến cho con người của ngàn năm thứ ba, một chứng tá mỗi ngày một chiếu sáng hơn cho Chúa Kitô, Đấng là Đường, là sự Thật, và là sự Sống. Chỉ trong Chúa Kitô và trong Tin Mừng của Người, mà nhân loại có thể gặp được câu trả lời cho những chờ đợi sâu xa nhất của mình.
Ước chi Năm Thánh Phaolô, mà chiều nay chúng ta sẽ khai mạc cách long trọng, giúp cho dân Kitô canh tân sự dấn thân đại kết, và ước chi được gia tăng những sáng kiến chung tiến đến sự hiệp thông giữa tất cả mọi môn đệ của Chúa Kitô.
Sự hiện diện của Ngài nơi đây hôm nay, chắc chắn là một dấu chỉ đầy khích lệ cho bước tiến trên con đường này. Vì thế, một lần nữa tôi xin nói lên với tất cả anh em niềm vui của tôi, trong khi chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa lời cầu nguyện đầy tâm tình tri ân.
Thánh Phaolô, con người của hai nền văn hóa
Linh Tiến Khải
17:06 07/07/2008
Thánh Phaolô, con người của hai nền văn hóa
Một số nhận định của Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolo, con người của hai nền văn hóa”
Sáng thứ tư mùng 2-7-2008 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về thánh Phaolô. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bày bối cảnh xã hội văn hóa thời thánh Phaolô hồi thế kỷ thứ I, và khẳng định rằng nó cần thiết vì giúp chúng ta hiểu con người, tư tưởng và các giáo huấn của thánh nhân. Thánh Phaolô là người do thái, được giáo dục và lớn lên trong phong tục tập quán do thái và được giáo dục để trở thành một rabbi do thái. Nhưng thánh nhân nói tiếng hy lạp và cũng là một Kitô hữu, sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô phục sinh.
Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolô, con người của hai nền văn hóa”.
Hỏi: Thưa giáo sư Marguerat, thánh Phaolô là một con người có nhiều mặt: Tông Đồ, người giảng thuyết, nhà truyền giáo, người đặc trách cộng đoàn, nhà thần học vv... Theo giáo sư, đâu là nhân tố của sư khác biệt này?
Đáp: Cái nút thắt của con người thánh Phaolô đó là từ vựng ”người giải thích”. Thánh nhân là người của Chúa Quan Phòng đã biết giải thích truyền thống của Đức Giêsu và cho phép Kitô giáo phát triển như là một tôn giáo đại đồng. Trong nghĩa này thánh nhân là người sáng ngời nhất giữa tất cả mọi gương mặt của Kitô giáo thời tiên khởi. Thánh nhân không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người duy nhất lao mình vào cuộc mạo hiểm giải thích này, nhưng ngài là người có khiếu nhất.
Hỏi: Có cái gì cho biết kiểu giải thich của thánh Phaolô sẽ thắng thế thưa giáo sư?
Đáp: Từ một quan điểm thực dụng, ban đầu thánh nhân đã thành công trong hoạt động truyền giáo. Thánh Phaolo là một người có các cộng sự viên, biết làm việc theo nhóm, có hệ thống nối kết. Người ta thường tưởng tượng là thánh nhân chỉ làm việc một mình, nhưng thật ra không phải vậy! Chỉ vì người ta thường không biết tới hệ thống truyền giáo của thánh nhân, gồm nhiều cộng sự viên, là yếu tố hướng dẫn công tác truyền giáo hữu hiệu nhất thời xa xưa.
Nhưng nhất là thánh Phaolô là người của hai nền văn hóa: nền văn hóa do thái và nền văn hóa hy lạp latinh. Ngài là một người biệt phái, thuộc phe khắt khe của Do thái giáo trong tư tưởng, trong việc chú giải sách Luật và áp dụng lễ nghi vào cuộc sống cá nhân. Ngài cũng là một người hoàn toàn có khả năng sử dụng biện chứng pháp và khoa hùng biện hy lạp roma, mà chắc chắn là ngài đã học được từ trường học khắc kỷ thành Tarso, là trường dậy triết lý khắc kỷ lớn nhất của vùng đông Địa Trung Hải. Thánh Phaolô tham dự vào ngã tư văn hóa đó, vì thế tư tưởng của ngài sẽ cho phép Kitô giáo rời bỏ qũy đạo gốc của Do thái giáo, để rộng mở cho tính cách vũ hoàn của thế giới.
Hỏi: Chúng ta có thể xác định kiểu thánh nhân loan báo Tin Mừng trong các nền văn hóa hoàn toàn không hề biết gì về Tin Mừng hay không?
Đáp: Khó mà có thể nắm bắt được việc giảng giải đầu tiên của thánh nhân, vì các bút tích của ngài được viết ra trong giai đoạn sau hết của cuộc đời. Chúng ta không có gì liên quan tới thời gian giảng dậy đầu tiên này, nhưng một cách nào đó có được một ít trong giai đoạn thứ hai. Điều mà ít nhất chúng ta có thể thấy trong các thư của người: đó là thánh Phaolô đề nghị một nền thần học đoạn tuyệt, bẻ gẫy với qúa khứ. Ngài sử dụng tư tưởng gây ”sốc” mạnh, chẳng hạn như loan báo thập giá như là ”sự vấp phạm” đối với người do thái, và sự ”điên dại” đối với dân ngoại.
Thập giá là ”gương mù gương xấu, là điều gây vấp phạm”, vì nó trưng bầy một Đấng Cứu Thế giòn mỏng yếu đuối, không thể chấp nhận được đối với truyền thống do thái. Nó là sự điên dại đối với người ngoại giáo: thánh nhân ám chỉ việc kiếm tìm sự khôn ngoan của triết học hy lạp, một sự kiếm tìm vừa triết lý vừa tôn giáo, dẫn đưa tới các nguyên tắc cấu trúc thế giới. Đối với sự khôn ngoan đó, thì lý trí là một phần của sự tìm kiếm Thiên Chúa: Cần phải cho thấy Thiên Chúa tự đồng hóa với trật tự thế giới như thế nào.
Như vậy trong bối cảnh đó, loan báo rằng Thiên Chúa tự mạc khải trong một thân xác bị treo trân thập giá thì vừa phi lý vừa vô lý. Thánh Phaolô rất thành công trong việc diễn tả, qua ngôn ngữ của hai nền văn hóa, làm thế nào mà Thiên Chúa lại có thể tự biểu lộ trên Thập Giá là một vì Thiên Chúa vượt thoát sự tìm hiểu, vượt thoát sự chờ đợi và sự tưởng tượng của mọi tìm kiếm tôn giáo.
Hỏi: Đâu là chỗ của kinh nghiệm cá nhân trong nền thần học của thánh Phalô thưa giáo sư?
Đáp: Thánh Phaolô là một người rất bẽn lẽn, kín đáo. Ngài không phải là một người thích phô trương tôn giáo. Dĩ nhiên, ngài đã không bao giờ chối bỏ sự hoán cải và qúa khứ là người bách hại Giáo Hội, cũng như sự kiện cuộc đời ngài đã được chính Chúa Kitô thay đổi. Nếu thánh nhân có nhắc lại những điều đó, thì không bao giờ để đề cao cái ”tôi” của ngài, nhưng luôn luôn để bầy tỏ hoạt động của Thiên Chúa nơi ngài và qua ngài. Phaolô đọc lại trong nhãn quan thần học cuộc đổi đời của mình. Thần học của ngài là thần học của sự đoạn tuyệt, tương đương với sự đoạn tuyệt với qúa khứ trong cuộc sống của ngài. Nếu thánh Phaolô đã có thể mạnh mẽ loan báo sự cáo chung của Torah của Luật Lệ như con đường cứu rỗi và sự mạc khải của một Thiên Chúa, và đảo lộn hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta tưởng tượng ra, thì chính là bởi vì hai khẳng định này tương đương với điều thánh nhân đã sống trong chính con người của ngài.
Hỏi: Thưa giáo sư, gương mặt thánh Phaolô có thể giúp gì cho việc nghĩ tới tình hình của Kitô hữu ngày nay hay không?
Đáp: Điều khiến cho chúng ta gần gũi với tình trạng của thánh Phaolô đó là việc khám phá ra rằng: Kitô giáo ngày nay tiếp tục là một thiểu số trong một xã hội có cảnh công khai buôn bán và cạnh tranh tôn giáo, và Kitô giáo phải biện minh cho lý do hiện hữu của mình. Trong bối cảnh đó, thánh Phaolô dậy cho chúng ta biết công thức hóa căn tính Kitô như một căn cước rộng mở. Thật thế, trọng tâm nền thần học của thánh nhân đó là việc đến với Thiên Chúa không còn tùy thuộc vào một chủng tộc, không tùy thuộc lịch sử phái tính hay các thành tích tôn giáo nữa. Đó là điều chúng ta gọi là sự công chính hóa nhờ lòng tin. Sự tiếp đón mà Thiên Chúa dành để cho chúng ta là sự tiếp đón vô điều kiện. Từ đó thánh Phaolô thành lập các cộng đoàn phản ánh điều thánh nhân tin: các cộng đoàn, trong đó các người nam nữ, chủ nhân và nô lệ, do thái và hy lạp nhận biết nhau và cùng chia sẻ một thực thể là ”thân mình của Chúa Kitô”, và mỗi người đều bình đẳng trong quyền lợi, trách nhiệm và ơn gọi. Đó là các ”cộng đoàn các môn đệ bình đẳng”, theo kiểu nói của học giả Elisabeth Schuessler Fiorenza. Chính vì thế biến thánh Phaolô trở thành một người ”chống nữ giới”, như người ta thường lập lại, thì không phải chỉ là phạm lỗi sai thời đại, mà còn là đọc sai thời đại nữa... Nhưng đó không phải là điều lạ lùng gì: thánh Phaolô đã thường bị người ta đọc sai biết bao nhiêu!
Hỏi: Trên đây giáo sư đã nói tới căn cước rộng mở, nhưng vài cộng đoàn Kitô nào đó có thể đòi cho mình quyền tham chiếu thánh Phaolô mà vẫn khép kín thì sao thưa giáo sư...
Đáp: Đúng thế, thánh Phaolô có thể bị người ta tịch thu. Nhưng sự có sự khác biệt: đó là cuộc đối thoại cởi mở của thánh Phaolô với nền văn hóa. Các cộng đoàn khép kín có cái nhìn tiêu cực đối với thế giới và bi quan đối với văn hóa.
Chúng thường có một cái nhìn đầy tai ương đối với lịch sử. Các cộng đoàn này khước từ sự tân tiến và ra khỏi thế giới. Trái lại, thánh Phaolô rao giảng sự khác biệt đối với xã hội, một sự khác biệt cho thấy phẩm chất các tương quan nhân bản và các giá trị, mà tín hữu Kitô có thể cống hiến cho mọi người, nhưng thánh nhân không bao giờ trừ qủy thế giới và nền văn hóa của nó. Ngài bước vào cuộc tranh luận. Ngài bước vào lòng đời. Do đó thánh Phaolô không thể là biểu hiệu của các phong trào tách rời, chia rẽ phe đảng hay duy toàn vẹn được.
Hỏi: Giáo sư ưa thích điều gì nhất nơi thánh Phaolô?
Đáp: Một cách mâu thuẫn điều tôi đánh giá cao nhất nơi thánh nhân đó là óc khôi hài của ngài. Đọc các thư của thánh Phaolô không phải là một việc đặc biệt tức cười đâu! Điều mà tôi gọi là khôi hài, đó là khả năng giữ khoảng cách với điều chúng ta sống. Thí dụ tại Côrintô, khi thánh Phaolô bị tố cáo là một người giảng thuyết tồi, có triều thiên đặc sủng dễ bị người khác lấy mất, thì thánh nhân đã phản ứng với óc khôi hài. Ngài trả lời: Anh chị em hoàn toàn có lý. Nói cho cùng điều duy nhất tôi có thể khoe khoang là một chuỗi các khốn khổ của tôi thôi: tôi đã bị cầm tù, bị đánh đòn, tôi đã bị đắm tầu nhiều lần... Nhưng nếu tôi có thể nói là tôi khoe khoang về điều đó, thì chính bởi vì Thiên Chúa đã cứu thoát tôi khỏi các hiểm nguy ấy. Sự kiện đã vượt qua các thử thách này là dấu chỉ ơn thánh của Chúa hoạt động qua tôi”.
Như thế thánh Phaolô cho thấy điều người ta trách cứ ngài - sự thất bại - lại chính là cái xây dựng sự đích thật ơn gọi của ngài. Đó là óc khôi hài tin mừng: cho thấy làm sao trong sự yếu đuối giòn mỏng và trong sự chế nhạo lại biểu lộ quyền năng bí mật của Thiên Chúa của thập giá. Tin Mừng của thánh Phaolô vĩnh viễn đoạn tuyệt với một ý thức hệ của thành tích.
(La Croix 28-6-2008)
Một số nhận định của Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolo, con người của hai nền văn hóa”
Sáng thứ tư mùng 2-7-2008 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về thánh Phaolô. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bày bối cảnh xã hội văn hóa thời thánh Phaolô hồi thế kỷ thứ I, và khẳng định rằng nó cần thiết vì giúp chúng ta hiểu con người, tư tưởng và các giáo huấn của thánh nhân. Thánh Phaolô là người do thái, được giáo dục và lớn lên trong phong tục tập quán do thái và được giáo dục để trở thành một rabbi do thái. Nhưng thánh nhân nói tiếng hy lạp và cũng là một Kitô hữu, sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô phục sinh.
Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolô, con người của hai nền văn hóa”.
Hỏi: Thưa giáo sư Marguerat, thánh Phaolô là một con người có nhiều mặt: Tông Đồ, người giảng thuyết, nhà truyền giáo, người đặc trách cộng đoàn, nhà thần học vv... Theo giáo sư, đâu là nhân tố của sư khác biệt này?
Đáp: Cái nút thắt của con người thánh Phaolô đó là từ vựng ”người giải thích”. Thánh nhân là người của Chúa Quan Phòng đã biết giải thích truyền thống của Đức Giêsu và cho phép Kitô giáo phát triển như là một tôn giáo đại đồng. Trong nghĩa này thánh nhân là người sáng ngời nhất giữa tất cả mọi gương mặt của Kitô giáo thời tiên khởi. Thánh nhân không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người duy nhất lao mình vào cuộc mạo hiểm giải thích này, nhưng ngài là người có khiếu nhất.
Hỏi: Có cái gì cho biết kiểu giải thich của thánh Phaolô sẽ thắng thế thưa giáo sư?
Đáp: Từ một quan điểm thực dụng, ban đầu thánh nhân đã thành công trong hoạt động truyền giáo. Thánh Phaolo là một người có các cộng sự viên, biết làm việc theo nhóm, có hệ thống nối kết. Người ta thường tưởng tượng là thánh nhân chỉ làm việc một mình, nhưng thật ra không phải vậy! Chỉ vì người ta thường không biết tới hệ thống truyền giáo của thánh nhân, gồm nhiều cộng sự viên, là yếu tố hướng dẫn công tác truyền giáo hữu hiệu nhất thời xa xưa.
Nhưng nhất là thánh Phaolô là người của hai nền văn hóa: nền văn hóa do thái và nền văn hóa hy lạp latinh. Ngài là một người biệt phái, thuộc phe khắt khe của Do thái giáo trong tư tưởng, trong việc chú giải sách Luật và áp dụng lễ nghi vào cuộc sống cá nhân. Ngài cũng là một người hoàn toàn có khả năng sử dụng biện chứng pháp và khoa hùng biện hy lạp roma, mà chắc chắn là ngài đã học được từ trường học khắc kỷ thành Tarso, là trường dậy triết lý khắc kỷ lớn nhất của vùng đông Địa Trung Hải. Thánh Phaolô tham dự vào ngã tư văn hóa đó, vì thế tư tưởng của ngài sẽ cho phép Kitô giáo rời bỏ qũy đạo gốc của Do thái giáo, để rộng mở cho tính cách vũ hoàn của thế giới.
Hỏi: Chúng ta có thể xác định kiểu thánh nhân loan báo Tin Mừng trong các nền văn hóa hoàn toàn không hề biết gì về Tin Mừng hay không?
Đáp: Khó mà có thể nắm bắt được việc giảng giải đầu tiên của thánh nhân, vì các bút tích của ngài được viết ra trong giai đoạn sau hết của cuộc đời. Chúng ta không có gì liên quan tới thời gian giảng dậy đầu tiên này, nhưng một cách nào đó có được một ít trong giai đoạn thứ hai. Điều mà ít nhất chúng ta có thể thấy trong các thư của người: đó là thánh Phaolô đề nghị một nền thần học đoạn tuyệt, bẻ gẫy với qúa khứ. Ngài sử dụng tư tưởng gây ”sốc” mạnh, chẳng hạn như loan báo thập giá như là ”sự vấp phạm” đối với người do thái, và sự ”điên dại” đối với dân ngoại.
Thập giá là ”gương mù gương xấu, là điều gây vấp phạm”, vì nó trưng bầy một Đấng Cứu Thế giòn mỏng yếu đuối, không thể chấp nhận được đối với truyền thống do thái. Nó là sự điên dại đối với người ngoại giáo: thánh nhân ám chỉ việc kiếm tìm sự khôn ngoan của triết học hy lạp, một sự kiếm tìm vừa triết lý vừa tôn giáo, dẫn đưa tới các nguyên tắc cấu trúc thế giới. Đối với sự khôn ngoan đó, thì lý trí là một phần của sự tìm kiếm Thiên Chúa: Cần phải cho thấy Thiên Chúa tự đồng hóa với trật tự thế giới như thế nào.
Như vậy trong bối cảnh đó, loan báo rằng Thiên Chúa tự mạc khải trong một thân xác bị treo trân thập giá thì vừa phi lý vừa vô lý. Thánh Phaolô rất thành công trong việc diễn tả, qua ngôn ngữ của hai nền văn hóa, làm thế nào mà Thiên Chúa lại có thể tự biểu lộ trên Thập Giá là một vì Thiên Chúa vượt thoát sự tìm hiểu, vượt thoát sự chờ đợi và sự tưởng tượng của mọi tìm kiếm tôn giáo.
Hỏi: Đâu là chỗ của kinh nghiệm cá nhân trong nền thần học của thánh Phalô thưa giáo sư?
Đáp: Thánh Phaolô là một người rất bẽn lẽn, kín đáo. Ngài không phải là một người thích phô trương tôn giáo. Dĩ nhiên, ngài đã không bao giờ chối bỏ sự hoán cải và qúa khứ là người bách hại Giáo Hội, cũng như sự kiện cuộc đời ngài đã được chính Chúa Kitô thay đổi. Nếu thánh nhân có nhắc lại những điều đó, thì không bao giờ để đề cao cái ”tôi” của ngài, nhưng luôn luôn để bầy tỏ hoạt động của Thiên Chúa nơi ngài và qua ngài. Phaolô đọc lại trong nhãn quan thần học cuộc đổi đời của mình. Thần học của ngài là thần học của sự đoạn tuyệt, tương đương với sự đoạn tuyệt với qúa khứ trong cuộc sống của ngài. Nếu thánh Phaolô đã có thể mạnh mẽ loan báo sự cáo chung của Torah của Luật Lệ như con đường cứu rỗi và sự mạc khải của một Thiên Chúa, và đảo lộn hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta tưởng tượng ra, thì chính là bởi vì hai khẳng định này tương đương với điều thánh nhân đã sống trong chính con người của ngài.
Hỏi: Thưa giáo sư, gương mặt thánh Phaolô có thể giúp gì cho việc nghĩ tới tình hình của Kitô hữu ngày nay hay không?
Đáp: Điều khiến cho chúng ta gần gũi với tình trạng của thánh Phaolô đó là việc khám phá ra rằng: Kitô giáo ngày nay tiếp tục là một thiểu số trong một xã hội có cảnh công khai buôn bán và cạnh tranh tôn giáo, và Kitô giáo phải biện minh cho lý do hiện hữu của mình. Trong bối cảnh đó, thánh Phaolô dậy cho chúng ta biết công thức hóa căn tính Kitô như một căn cước rộng mở. Thật thế, trọng tâm nền thần học của thánh nhân đó là việc đến với Thiên Chúa không còn tùy thuộc vào một chủng tộc, không tùy thuộc lịch sử phái tính hay các thành tích tôn giáo nữa. Đó là điều chúng ta gọi là sự công chính hóa nhờ lòng tin. Sự tiếp đón mà Thiên Chúa dành để cho chúng ta là sự tiếp đón vô điều kiện. Từ đó thánh Phaolô thành lập các cộng đoàn phản ánh điều thánh nhân tin: các cộng đoàn, trong đó các người nam nữ, chủ nhân và nô lệ, do thái và hy lạp nhận biết nhau và cùng chia sẻ một thực thể là ”thân mình của Chúa Kitô”, và mỗi người đều bình đẳng trong quyền lợi, trách nhiệm và ơn gọi. Đó là các ”cộng đoàn các môn đệ bình đẳng”, theo kiểu nói của học giả Elisabeth Schuessler Fiorenza. Chính vì thế biến thánh Phaolô trở thành một người ”chống nữ giới”, như người ta thường lập lại, thì không phải chỉ là phạm lỗi sai thời đại, mà còn là đọc sai thời đại nữa... Nhưng đó không phải là điều lạ lùng gì: thánh Phaolô đã thường bị người ta đọc sai biết bao nhiêu!
Hỏi: Trên đây giáo sư đã nói tới căn cước rộng mở, nhưng vài cộng đoàn Kitô nào đó có thể đòi cho mình quyền tham chiếu thánh Phaolô mà vẫn khép kín thì sao thưa giáo sư...
Đáp: Đúng thế, thánh Phaolô có thể bị người ta tịch thu. Nhưng sự có sự khác biệt: đó là cuộc đối thoại cởi mở của thánh Phaolô với nền văn hóa. Các cộng đoàn khép kín có cái nhìn tiêu cực đối với thế giới và bi quan đối với văn hóa.
Chúng thường có một cái nhìn đầy tai ương đối với lịch sử. Các cộng đoàn này khước từ sự tân tiến và ra khỏi thế giới. Trái lại, thánh Phaolô rao giảng sự khác biệt đối với xã hội, một sự khác biệt cho thấy phẩm chất các tương quan nhân bản và các giá trị, mà tín hữu Kitô có thể cống hiến cho mọi người, nhưng thánh nhân không bao giờ trừ qủy thế giới và nền văn hóa của nó. Ngài bước vào cuộc tranh luận. Ngài bước vào lòng đời. Do đó thánh Phaolô không thể là biểu hiệu của các phong trào tách rời, chia rẽ phe đảng hay duy toàn vẹn được.
Hỏi: Giáo sư ưa thích điều gì nhất nơi thánh Phaolô?
Đáp: Một cách mâu thuẫn điều tôi đánh giá cao nhất nơi thánh nhân đó là óc khôi hài của ngài. Đọc các thư của thánh Phaolô không phải là một việc đặc biệt tức cười đâu! Điều mà tôi gọi là khôi hài, đó là khả năng giữ khoảng cách với điều chúng ta sống. Thí dụ tại Côrintô, khi thánh Phaolô bị tố cáo là một người giảng thuyết tồi, có triều thiên đặc sủng dễ bị người khác lấy mất, thì thánh nhân đã phản ứng với óc khôi hài. Ngài trả lời: Anh chị em hoàn toàn có lý. Nói cho cùng điều duy nhất tôi có thể khoe khoang là một chuỗi các khốn khổ của tôi thôi: tôi đã bị cầm tù, bị đánh đòn, tôi đã bị đắm tầu nhiều lần... Nhưng nếu tôi có thể nói là tôi khoe khoang về điều đó, thì chính bởi vì Thiên Chúa đã cứu thoát tôi khỏi các hiểm nguy ấy. Sự kiện đã vượt qua các thử thách này là dấu chỉ ơn thánh của Chúa hoạt động qua tôi”.
Như thế thánh Phaolô cho thấy điều người ta trách cứ ngài - sự thất bại - lại chính là cái xây dựng sự đích thật ơn gọi của ngài. Đó là óc khôi hài tin mừng: cho thấy làm sao trong sự yếu đuối giòn mỏng và trong sự chế nhạo lại biểu lộ quyền năng bí mật của Thiên Chúa của thập giá. Tin Mừng của thánh Phaolô vĩnh viễn đoạn tuyệt với một ý thức hệ của thành tích.
(La Croix 28-6-2008)
Nam Úc, Thánh Lễ Đa Văn Hóa, Đồng Hành Giới Trẻ TGP Adelaide
Jos. Vĩnh SA
20:01 07/07/2008
Thánh Lễ Đa Văn Hóa, Đồng Hành Giới Trẻ TGP Adelaide, Nam Úc
![]() |
Biểu Tượng Giới Trẻ |
Trưởng ban tổ chức Thánh Lễ do ông Nguyễn Quang Bình phó chủ tịch ngoại vụ Cộng Đồng, phối hợp với một vài thành viên nhóm trẻ sắc tộc của TGP Adelaide thiết lập chương trình.
Đồng tế trong Thánh Lễ có Đức Cha Jan Tyrawa và nhiều Linh mục người Ba Lan đến từ cộng hoà Ba Lan sang Úc tham dự WYD, cùng với các vị Tuyên Úy cộng đồng các sắc tộc tại Adelaide.
Ngoài ra còn có 3 Linh Mục Việt Nam đang du học tại Pháp cũng sang Úc tham dự ĐHGT là: Lm. Micae Nguyễn Khắc Minh GP Cần Thơ, Lm. Dom. Nguyễn Tiến Anh GP Xuân Lộc, Lm. Gabriel Nguyễn Tấn Di GP Mỹ Tho, các linh mục VN này sẽ cùng tháp tùng với phái đoàn giới trẻ Nam Úc và nhóm trẻ Thiên Phúc Việt Nam sang Sydney tham dự ĐHGT vào cuối tuần này.
Thánh lễ đồng tế do Đức ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm quản nhiệm chủ tế, phụ tế Lm. G.B Nguyễn Viết Huy Sj phó quản nhiệm Cộng Đồng.
Phụng vụ trong Thánh Lễ do các bạn trẻ nhóm Thiên Phúc từ VN và nhóm trẻ từ Ba Lan qua, với một vài bạn trẻ thuộc các cộng đồng sắc tộc tại Adelaide.
Sau Thánh Lễ ban tổ chức đã khỏan đãi một bữa ăn chung do thân nhân của các bạn trẻ chuẩn bị đi dự Đại Hội Giới Trẻ thuộc Cộng Đồng Công Giáo Người Việt / Nam Úc đầu bếp và chế biến với rất nhiều món ăn khoái khẩu thuần túy VN. Các thực khách đã thưởng thức tận tình.
Lồng trong khung cảnh của một buổi tối hòa đồng đậm tình thân thương hôm nay, là một chương trình văn nghệ bỏ túi, đặc sắc gồm các tiết mục: Ca, vũ, nhạc, kịch và múa rối do nhóm Thiên Phúc Việt Nam và nhóm trẻ CĐCG Nam Úc trình diễn.
Đến tham dự văn nghệ, ngoài quan khách và các bạn trẻ cùng thân nhân còn có Đức Cha Greg. O’Kelly Giám Mục phụ tá TGP Adelaide.
![]() |
Đồng Tế |
Mặc dù trời mưa rơi, của một buổi tối gía lạnh mùa đông Nam Úc, nhưng có khoảng trên 800 người đến tham dự, trong bầu không khí sôi nổi, thật vui vẻ hòa đồng, đã làm cho hội trường trở nên ấm cúng, đánh tan giá lạnh.
Top Stories
Pope urges G8 leaders to focus on world's poor
AFP
00:23 07/07/2008
CASTEL GONDOLFO, Italy, (AFP) - Pope Benedict XVI called on Group of Eight leaders meeting in Japan this week to focus on the needs of the world's poorest and most vulnerable.
He urged them to place "at the centre of their deliberations the needs of the weakest and the poorest, more vulnerable now because of speculation and financial turbulence and their perverse effects on the prices of food and energy."
Leaders of the Group of Eight industrialised nations will Monday begin three days of annual talks in the Japanese mountain resort town of Toyako that will be dominated by the fragile world economy and global warming.
The 81-year-old pontiff, speaking at his summer residence at Castelgandolfo near Rome during his traditional Sunday Angelus prayer, urged "generosity and far-sightedness" during the talks.
Benedict called on the leaders to "courageously adopt all the necessary measures to overcome the scourges of extreme poverty, of hunger, disease, illiteracy, that still affect such a great part of humanity."
He urged them to place "at the centre of their deliberations the needs of the weakest and the poorest, more vulnerable now because of speculation and financial turbulence and their perverse effects on the prices of food and energy."
Leaders of the Group of Eight industrialised nations will Monday begin three days of annual talks in the Japanese mountain resort town of Toyako that will be dominated by the fragile world economy and global warming.
The 81-year-old pontiff, speaking at his summer residence at Castelgandolfo near Rome during his traditional Sunday Angelus prayer, urged "generosity and far-sightedness" during the talks.
Benedict called on the leaders to "courageously adopt all the necessary measures to overcome the scourges of extreme poverty, of hunger, disease, illiteracy, that still affect such a great part of humanity."
Văn Hóa
Chuyển Tiếp Đức Tin của Gia Đình
Bùi Hữu Thư
10:13 07/07/2008
Chuyển Tiếp Đức Tin của Gia Đình
Trách nhiệm chuyển tiếp đức tin của gia đình là một thách đố lớn lao và kỳ diệu. Chúng ta đưa con cái vào đời để chúng khám phá ra Đấng đã ban cho chúng ta sự sống và giúp cho đời sống hàng ngày của chúng ta có ý nghĩa. Chúng ta giới thiệu con cái với người bạn tuyệt vời là Đức Kitô, một Thiên Chúa đã xuống thế làm người để bầy tỏ tình yêu của Người và hướng dẫn chúng ta khám phá ra sự tự do đích thật và hạnh phúc trường cửu. Chúng ta làm thức giậy nơi chúng lòng khao khát xây dựng một mối tương quan với Chúa Kitô trong sự mật thiết của kinh nguyện và Thánh Thể. Chúng ta dám mời gọi chúng trở nên thánh, và làm một cộng tác viên của Chúa Kitô trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây thật sự là một thách đố và một cuộc mạo hiểm kỳ thú.
Khám phá ra nguồn vui trong sự quý chuộng tình yêu
Thế gian tươi đẹp hơn buổi sáng nay vì một đứa trẻ mới sanh. Cha mẹ nó tràn đầy niềm vui trước sự kỳ diệu của đời sống mới này, mặt họ vẫn còn đầy nước mắt. Thời điểm thiêng liêng khi đứa bé chào đời đã mang đến cho họ một vai trò mới: làm cha làm mẹ. Họ đã bắt đầu mơ ước đến một tương lai huy hoàng cho đứa nhỏ trông giống họ và được cấu tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Là bậc cha mẹ có đức tin mạnh mẽ, họ muốn cho con những gì tốt đẹp nhất. Đứa con mà Chúa Cha – Đấng Tạo Hóa – đã ban cho họ. Họ biết rằng đứa bé này đặc biệt khác với những đứa trẻ khác, một đứa được Thiên Chúa muốn tạo ra và yêu thương qua muôn thế hệ. Họ biết rằng đứa bé này, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được mời gọi tham gia vào đời sống thiêng liêng của Thiên Chúa qua phép rửa tội. Đứa bé được mời gọi sống một cuộc đời với Thiên Chúa như một quà tặng của tình yêu hàng ngày.
Sẽ có ngày nó biết nói: “Con tin vào tình yêu Thiên Chúa”.. . do đó nó đã làm một quyết định căn bản cho một đời sống kitô – một quyết định “không phải là kết quả của một sự lựa chọn luân lý hay một tư tưởng cao siêu, nhưng là một sự gặp gỡ một biến cố, một nhân vật, đem đến cho sự sống một chân trời mới và một hướng đi nhất định.”(1)
Nhân vật nó sẽ gặp là Đức Giêsu Kitô – một Thiên Chúa mang khuôn mặt con người – đã đến để sống giữa chúng ta để mời gọi chúng ta hòa giải với Thiên Chúa, để cứu chúng ta khỏi bị chết muôn đời và để hứa hẹn rằng thân xác chúng ta sẽ có ngày được sống lại. Đó là Chúa Kitô, đấng sống lại đầu tiên, đấng thực sự đang sống bên chúng ta – như người bạn đường, người thầy và hướng dẫn viên – và dậy chúng ta trở nên nhân bản hơn với mỗi ngày qua.
Quà tặng quý giá nhất
Tại trung tâm của đời sống kitô, có một lời “xin vâng”. Có một mối tương quan mật thiết và riêng tư với Chúa Kitô, một mối liên hệ tin yêu được khởi sự vào lúc rửa tội và phát triển trong suốt cuộc đời. Khi xin phép bí tích này cho con cái, các phụ huynh ban cho nó một quà tặng quý báu nhất trên đời; vì đứa bé được trở nên một đứa con nuôi của Thiên Chúa, và một đứa con trong Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa. Đứa trẻ được rửa tội trở nên một thành viên của Nhiệm Thể Chúa Kitô; Chúa Kitô là Đầu, là người anh của đứa trẻ và đi bên cạnh nó. Tất cả những đứa trẻ đã rửa tội bây giờ cùng chia sẻ cuộc hành trình dẫn đưa tới Chúa Cha. Đứa trẻ này sẽ không bao giở lẻ loi.
Thực vậy, Thiên Chúa, thật nhân hiền và gần gũi chúng ta, là đấng độc nhất có thể làm cho linh hồn con người được viên mãn – một linh hồn bất tử. Để thực hiện kế hoạch tình yêu này, Thiên Chúa cần đến chúng ta. Chúa cần chúng ta và qua Chúa Thánh Thần sống trong chúng ta, một cách trọn vẹn hơn khi chúng ta chịu phép Thêm Sức, chúng ta có thể thực hiện được điều Chúa nhờ cậy chúng ta.
Thật sung sướng biết bao khi biết rằng chúng ta được Đấng Tạo Hóa yêu thương và được mời gọi để yêu thương Chúa và cùng với Chúa, yêu tất cả mọi con cái của Người trên khắp thế gian! Hai tình yêu này không thế tách biệt... “Yêu Chúa và yêu tha nhân đã trở nên một: trong những người anh em nhỏ bé nhất chúng ta tìm được chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta tìm thấy Thiên Chúa.”(2)
Thật sung sướng biết bao khi chúng ta tự cho mình bị lôi kéo tới Chúa Kitô! Để chọn lựa việc trở nên giống Người và để nói cho mọi người khác – đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời và niềm hy vọng vĩnh cửu – chân lý mà Đức Kitô chia sẻ với chúng ta... “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”...
Vì chính đây là thách đố và sứ mệnh chúng ta lãnh nhận ngày chúng ta chịu phép rửa: chúng ta phải tìm cách làm cho mình giống Chúa Kitô, chỉ nhắm tới sự thánh thiện một cách khiêm tốn và hoạt động tích cực trong phong trào Phúc Âm Hóa mới. Chúng ta phải trở nên các môn đệ, chú tâm đến ý muốn của Thánh Thần. Chúng ta phải chuyển giao cho con cái chúng ta, gia đình chúng ta, bạn hữu chúng ta và tất cả mọi người chúng ta gặp Tin Mừng của một Thiên Chúa yêu thương mỗi cá nhân họ, và đang kiên nhẫn chờ đợi trong việc tôn trọng sự tự do của họ, mong họ mở cửa đời sống của họ cho Người.
Khi Con Cái Trưởng Thành
Biết bao nhiêu phụ huynh đã sung sướng khi ý thức rằng con cái họ đã được tạo dựng bởi tình yêu và cho tình yêu với một mục đích là đạt được hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng. Không có gì quan trọng hơn đối với các phụ huynh ngày nay là giúp con cái đáp ứng tự nguyện cho ơn gọi của chúng là những đứa con của Thiên Chúa. Đây là mục đích chính của họ trong vai trò giáo huấn; vì lý do này, họ phải nuôi dưỡng linh hồn con cái cũng như trí óc và thân thể của chúng.
Vậy thì tại sao chúng ta lại ngạc nhiên khi thay vì hỏi con cái xem chúng muốn làm gì khi chúng lớn lên, các phụ huynh này – đã gieo hạt và gìn giữ cho sống động trong chúng ước nguyện là vâng theo Ý Chúa – đôi khi lại còn hỏi chúng: “Các con nghĩ Thiên Chúa mong đợi gì nơi các con trong đời sống?”...
Bằng cách dậy con cái tìm kiếm Thánh Ý Chúa, các phụ huynh giúp chúng tiếp tục câu chuyện tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Chúng ta phải học hỏi cách thức hiệp nhất ý muốn của chúng ta với Thánh Ý Chúa trong khi các tư tưởng và cảm nghĩ của chúng ta mỗi ngày phản ảnh được sự hiệp thông của chúng ta với Chúa Kitô. Bằng cách này, một người kitô có thể nói: Thánh Ý Chúa không còn là một nghịch ý, một cái gì bị ép buộc từ bên ngoài bởi các giới răn, nhưng bây giờ lại là chính ý muốn của tôi, dựa trên ý thức rằng Thiên Chúa thực sự hiện diện sâu xa hơn nơi tôi hơn là tôi hiện diện nơi tôi.” Đây là con đường trên đó “sự tự hiến cho Chúa gia tăng và Thiên Chúa trở nên niềm hạnh phúc của chúng ta.(3)
Thiên Chúa Đang Tìm Kiếm Các Thánh
Thực vậy, Thiên Chúa đang tìm kiếm các cộng tác viên trong gia đình chúng ta. Khi gửi gấm những đứa con của Người cho các phụ huynh đang ôm ấp các giá trị Phúc Âm. Thiên Chuá hy vọng là chẳng bao lâu sau Người sẽ gặt hái được một mùa Ơn Gọi nên Thánh phồn thịnh: trong hôn nhân hay đời sống độc thân làm tông đồ giáo dân, và trong đời sống tu trì và linh mục.
Một tác giả vô danh đã nói như sau: “Khi Thiên Chúa muốn một điều gì đặc biệt được thực hiện trong thế gian, Người sai một hài nhi đến và rồi Người chờ đợi...” Người chờ các phụ huynh cấu tạo các người nam và nữ tự do và có tinh thần trách nhiệm, với một lương tâm không lay chuyển. Ngay cả khi biết rằng họ tội lỗi, sau khi đã quyết định đi theo Chúa, họ có niềm tin vào sự tha thứ và quyền năng của Chúa Thánh Thần, và sẽ mãi mãi tràn đầy hy vọng trên suốt cuộc hành trình của họ giữa thế gian.
Nói cách khác, Thiên Chúa đang chờ đợi các vị thánh. Người muốn “thánh hóa” chúng ta, để cho chúng ta trở nên giống Người hơn. Nhưng nên thánh có phải là một mục tiêu không thể đạt tới hay một thách đố không thể vượt thắng không? Làm sao để đạt được? Câu trả lời rất giản dị: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô hàng ngày của bạn xẩy ra nơi các tha nhân, nơi ước muốn của bạn, nơi công việc và tình cảm của bạn. Chúng ta phải tự thánh hóa bản thân ngay trong những gì trần thế nhất, trong khi phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Không có phương thế nào khác: trừ khi chúng ta biết học cách tìm được Thiên Chúa trong đời sống bình thường, hàng ngày, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được Người”.(4)
Qua Đời Sống Hàng Ngày
Do đó chính trong những gì tầm thường nhất của đời sống hàng ngày phụ huynh ý thức được sứ mệnh duy nhất là phải nuôi dưỡng các thánh. Trách vụ giáo dục, khi được linh hứng bởi đức tin, dần dần tìm cách cho con cái đi sâu vào một lối sống đặc biệt của người kitô và do đó được bắt rễ trong đức tin, hy vọng và tình yêu. Chúng học hỏi cách tận hiến cho tình yêu và yêu mến theo cách thức của Chúa Kitô, để vinh danh Thiên Chúa và phục vụ những ai chúng gặp gỡ trên đường. Đây là loại giáo dục con cái nhận được khi phụ huynh giúp chúng phát triển tài năng và nuôi dưỡng tâm tính của chúng bằng những thói quen tốt lành, và các đức tính tốt: một tinh thần làm việc ngay thẳng, với đức tính kiên nhẫn, hy sinh, trật tự, hòa nhã, hân hoan, mạnh mẽ, cẩn trọng, vâng lời, công bình, khiêm tốn, một tinh thần khó nghèo và biết chia sẻ, quảng đại, từ tâm, tha thứ, v..v..(5) Đúng là dậy chúng biết yêu. Nhưng yêu như Chúa Kitô yêu, bằng các tận hiến cho việc phục vụ những ai được đặt trên lối đi của chúng.
Hữu hiệu hơn là lời nói, con cái học được đức tin của chúng ta qua hành động của chúng ta: một cái bánh được nướng và đem tặng cho láng giềng mới; việc xin lỗi sau khi có cuộc cãi vã với một người bạn; một sự mời gọi chia sẻ với bạn bè và gia đình những đồ đạc, đồ chơi, và quần áo.
Thật là phúc đức nếu phụ huynh có thể trông chờ nơi sự trợ giúp của đại gia đình – ông bà, cha mẹ đỡ đầu, chú bác cô dì, anh chị em họ - và cộng đồng giáo xứ! Mạng lưới này là một kho táng quý báu vô giá giúp cho con cái được bắt rễ sâu nơi các giá trị khiến cho gia đình có một mầu sắc đặc biệt.
Cần nhất quán
Ngay lúc còn nhỏ, con cái của bạn có thể bắt đầu học cách dành thời giờ cho Chúa Giêsu, Đấng đang sống trong trái tim chúng, để tâm sự với Chúa những nỗi vui nỗi buồn, để trò truyện với Chúa trong khi chơi trong sân trường, trong khi làm bài ở nhà, trong khi giúp mẹ rửa chén hay dọn dẹp nhà cửa. Dần dần chúng được làm quen với sự hiện diện của Người và trở nên biết chiêm ngẫm ngay trong các hoạt động hàng ngày.
Một khi chúng thành người lớn, chúng sẽ thức giấc mỗi ngày và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ngày hôm nay?”... Chúng sẽ học cách nương nhờ vào ân sủng của Chúa, vào sức mạnh thiêng liêng nơi kinh nguyện, trong Phúc Âm và trong bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Chúng sẽ hoàn thành các công việc hàng ngày với tất cả khả năng để có thể dâng lên Chúa với tình yêu. Chúng sẽ chia sẻ trong chức vụ Tư Tế của Chúa Giêsu và có một linh hồn có khả năng dâng hiến tất cả mọi sự cho Chúa.
Chú tâm đến tiếng nói của Thánh Thần, chúng sẽ hy sinh đời sống, từng chút một, từng ngày một, để phục vụ kẻ khác và đưa dẫn họ đến với Chúa. Chúng sẽ biết rằng “Chương trình Kitô Giáo – chương trình của người Samaritanô nhân lành, chương trình của Chúa Giêsu – là ‘một trái tim biết nhìn’. Trái tim này nhìn thấy nơi nào cần đến tình yêu và đáp ứng.”(6)
Chúng sẽ không ngần ngại trung thành với Chúa Kitô, và chúng sẽ nhất quán trong đức tin trong khi chúng làm những lựa chọn cá nhân và nghề nghiệp, và các quyết định, dù có gặp phải nhiều chống đối. Chúng sẽ sẵn sàng trả giá đắt để trở thành ánh sáng cho thế gian, để biến đổi thế gian từ bên trong, để đem lại một trật tự mới cho thế giới về chính trị và kinh tế, và đồng thời một trật tự mới về tâm linh và văn hóa.
Tham Gia
Ngày nay, người Công Giáo phải đối phó với nhiều thách đố trong một xã hội đang sống như không có Thiên Chúa hiện diện. “Đặc biệt tình trạng thế giới hiện nay kêu gọi lương tâm của người Công Giáo trước những vấn đề nhức nhối về sự tôn trọng quyền sống của con người từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên, cũng như các vấn đề về nạn đói kém và khổ đau của hàng muôn muôn người trên thế giới. Tệ trạng của họ mời gọi người Công Giáo phải kết hiệp hoàn vũ trên danh nghĩa của phẩm giá bất khả vi phạm của con người, trên hết khi những người vô tội không thể tự bảo vệ trước các tai hoạ thiên nhiên giáng xuống, bị ảnh hưởng bởi chiến tranh tàn khốc và bị khai thác về kinh tế, và bị lưu giữ trong các trại tị nạn.”(7)
Sự đau khổ của biết bao nhiêu người đã sanh ra và chưa sanh ra, mời gọi chúng ta cầu nguyện và hành động: “Tất cả những ai bị đau khổ cướp đoạt mất danh dự của họ là con người là những láng giềng Chúa Kitô đã chịu chết vì họ. Trái tim ‘Thánh Thể’ của Người đã ôm trọn tất cả đau thương của thế giới trên thập giá và Thần Khí của Người thúc đẩy chúng ta lo cho những người nghèo hèn và những nạn nhân vô tội, như Người đã làm – một cách hòa bình và hữu hiệu.”(8)
Đa Văn Hóa Giả Tạo
Làm sao chúng ta có thể im lặng khi phải đối phó với một hệ thống tư tưởng, dưới danh nghĩa giúp cho mọi người một vị trí bình đẳng trong nền văn hóa của chúng ta, lại cố gắng bịt miệng người kitô và loại trừ họ ra khỏi đời sống công cộng, khỏi các cuộc tranh luận về xã hội, và các trường học? Đa văn hoá giả tạo này là một thách đố khác cho các môn đệ của Chúa Kitô. Là một công dân có đầy đủ nhân quyền, làm sao họ có thể từ bỏ những niềm tin sâu xa nhất của họ trong những hoạt động trong xã hội? Làm sao họ có thể bỏ sang một bên đức tin đã thúc đẩy họ đề nghị - thay vì ép buộc – một viễn ảnh tương lai và những giải pháp cho các vấn đề xã hội được các giá trị Phúc Âm đòi hỏi? Đây sẽ là một sự phản bội.
Đã đến lúc các gia đình phải đứng dậy, dám nói lên trong môi trường xã hội và văn hóa về bản chất đích thực của gia đình; để cùng nhau tụ họp để tuyên dương và bảo vệ căn tính của gia đình, trong khi đòi hỏi các quyền lợi theo hiến pháp và quyền tự nhiên – nhất là quyền tự do về lương tâm, về tôn giáo và phát biểu, và nhất là quyền giáo dục con cái phù hợp với niềm tin về luân lý và tôn giáo của họ. Là những người Công Giáo của thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta không thể thản nhiên hay sợ hãi. Sự can đảm của những người kitô đầu tiên là một gương sáng mời gọi chúng ta phải đi ngược lại trào lưu và xây dựng một nền văn hóa gia đình, một nền văn minh biết kính trọng tính chất thiêng liêng của đời sống và phẩm giá của mỗi con người.
Chuyển tiếp đức tin ngày nay có nghĩa là chuyển tiếp một viễn ảnh của đời sống và một thực tại khác với những gì văn hóa và giới truyền thông cung cấp. Cũng có nghĩa là phải làm gương cho con cái để chuẩn bị cho chúng biết tranh đấu cho công lý và chân lý về nhân loại, để cho chúng mang ánh sáng Phúc Âm đến với trọng tâm của đời sống công cộng, của văn hóa, kinh tế và chính trị. Con cái chúng ta cần đến một sự đào tạo vững chắc, cũng như có can đảm và có sự hỗ trợ của lời cầu nguyện của chúng ta. Trên hết, sự kiên trì của chúng sẽ được bắt rễ sâu trong niềm hy vọng tuôn chẩy từ sự tiếp xúc hàng ngày với Thánh Thần.
Thánh Thể: Suối Nguồn của Hôn Nhân Công Giáo
Ngay từ khi mới tạo dựng trời đất, theo kế hoạch tình yêu của Chúa, gia đình đã được bắt rễ trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân. Đây là nơi các cộng tác viên tương lai của Chúa được sanh ra và nuôi dưỡng. Gia đình “cần thiết cho con người và là nền tảng cốt yếu cho xã hội... một kho tàng quý giá và trường tồn cho các đôi hôn nhân và đặc biệt tốt lành cho con cái.”(9)
Gia đình, chiếc nôi của sự sống và tình yêu, cũng trở nên một cộng đồng đức tin và một trường dậy về nhân bản khi được xây dựng trên bí tích hôn phối. Gia đình trở nên một giáo hội gia đình nhỏ sống trong sự hiện diện của Chúa; Thiên Chúa cùng làm việc với đôi hôn nhân đã hứa giúp nhau để trở nên thánh. “Ân sủng của hôn nhân được tỏa lan trong suốt đời sống vợ chồng và gia đình, như một kho báu từ đó hai vợ chống có thể tới để kín múc. Chúng ta hãy có thói quen nói về hôn nhân, về việc làm nhân chứng cho hôn nhân như sức mạnh cho mỗi ngày.”(10)
Trở Nên Một
Kho tàng ân sủng không bao gờ cạn. Tại sao? Vì chính “Thánh Thể là suối nguồn của hôn nhân Công Giáo.”(11) Chính là sự hy sinh của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người – và cho giáo hội gia đình của đôi hôn nhân nữa! – đó là nguồn suối tình yêu giữa hai vợ chồng. Đó là giao ước mới và vĩnh cửu do Chúa Kitô thiết lập giữa Thiên Chúa và nhân loại đã thường xuyên đem lại sự sống cho giao ước hôn nhân của họ.
Không có gì trên thế gian có thể so sánh với quà tặng Chúa Kitô tự ban chính mình: Người còn tự hiến như cuả ăn cho chúng ta trở nên một trong Người. Vào ngày lễ thành hôn, đôi hôn nhân bước vào một sự kết hiệp lâu dài; để trung thành mãi mãi. Khi họ tham dự thánh lễ cùng với con cái và cùng lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống, gia đình của họ trở nên một thân thể trong Chúa Kitô, một sự hiệp thông của nhiều người. Mỗi người sẽ làm việc cho sự an vui và hạnh phúc của những người khác, và tất cả được mời gọi để làm kẻ giảng hòa và xây dựng bình an cho nhau.
Khi cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, gia đình kín múc từ suối nguồn tình yêu và chữa lành, và do đó bảo vệ được sự vững bền của họ. Thánh Thể cung cấp cho gia đình sức mạnh để theo đuổi sứ mệnh giữa thế gian: “Sứ mệnh đặc biệt của gia đình là nhập thể tình yêu và dùng tình yêu để phụng sự xã hội: tình yêu đôi lứa, tình yêu cha mẹ, tình yêu giữa anh chị em, tình yêu của một cộng đồng gia đình, một thế hệ, tình yêu sống dưới dấu chỉ của một đôi lứa trung thủy và sanh sản nhiều con cái cho một nền văn minh của tình thương và sự sống.”
Khi Thập Giá Xuất Hiện
Đôi khi, sự hiệp thông của hai vợ chồng hay gia đình gặp nhiều khó khăn, Khi thập giá xuất hiện dưới hình thức của sự ngoại tình, ly thân và ly dị, cha mẹ, con cái, và đại gia đình được mời gọi để tham gia mật thiết hơn trong chính kinh nghiệm của Chúa Kitô qua cái chết và sự phục sinh. Trong những trường hợp này, nhiều phụ huynh Công Giáo vẫn muốn chuyển tiếp đức tin cho con cái. Sự yểm trợ của cộng đồng giáo xứ hết sức quan trọng.
Điều có thể xẩy ra là một số người lớn thấy mình bi rơi vào những hoàn cảnh bất bình thường. Họ cũng cần được mời gọi để tham gia vào bí tích Thánh Thể và đời sống cộng đồng mặc dầu họ không được rước lễ. Đối với họ việc rước lễ thiêng liêng có thể là một nguồn an ủi và trợ lực quý giá.
Sự hiệp thông của một gia đình có thể bị tổn thương khi phụ huynh thấy con cái họ từ bỏ đức tin và các giá trị Công Giáo. Một tác giả người Pháp viết:
“Một số người trẻ lạc xa đức tin một cách lâu dài và trầm trọng. Đây là giai đoạn họ cần đến nhiều hơn tình thương trung thành và đáng tin tưởng của cha mẹ chúng. Đối với các bậc cha mẹ, đây là giai đoạn phải kiên nhẫn, phải yêu thương nhiều hơn mặc dầu cảm thấy đau đớn và tuyệt vọng... Không nên buồn sầu, ân hận, và tự trách mình... Quá khứ thuộc về lòng xót thương: sự tha thứ của Thiên Chúa vẫn còn đó, và luôn luôn được ban cho... Bạn làm gì được trong khi bạn chờ đợi sự trở về của đứa con hoang đàng?’’ ‘Trông đợi và cầu nguyện’... Vì Chúa Giêsu là đấng đau khổ đầu tiên vì đứa trẻ này, vì Người đã ban sự sống của Người cho nó, chưa có gì bị mất đi, tất cả mọi người đều được cứu rỗi.”
Chúng ta có thể noi gương Thánh Monica đã cầu nguyện trên 20 năm cho sự trở về của con bà, là Thánh Âugustin. Giáo phụ của Giáo Hội này đã tuyên bố: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên chúng con cho Chúa, và tim chúng con sẽ không được an nghỉ cho đến khi được an nghỉ trong Chúa.”
Nghệ Thuật Cầu Nguyện
Kinh nghiệm cho biết muốn yêu một người, ta phải hiểu biết người đó. Và muốn biết người đó, ta phải dành thời giờ để gần gũi họ. Chúng ta cứ thử hỏi những người đang yêu! Chính vì thế mà nghệ thuật cầu nguyện lại thiết yêu cho những ai muốn yêu Chúa Giêsu Kitô, là bộ mặt của Thiên Chúa dành cho thế giới chúng ta.
Một thi sĩ và thần học gia Gia Nã Đại cho chúng ta tư tưởng này về nghệ thuật đó: “Cầu nguyện là tự nguyện dâng cho Chúa thời gian. Trong khi bạn cầu nguyện, bạn để cho Chúa nhào nắn bạn”... “Cầu nguyện là nâng linh hồn lên với Chúa và xin Người cho biết phải làm gì cho hợp với thánh ý Người”... “Cầu nguyện không phải là dốc trọn mình ra cho hoàn toàn trống rỗng, mà là kết hiệp với Chúa Kitô bằng cách đọc kinh Lạy Cha, để chia sẻ ước muốn của Chúa Kitô là dâng tất cả mọi sự cho Chúa Cha”... Cầu nguyện “là một sự gặp gỡ khi bạn tự đặt mình trước sự hiện diện của Chúa để yêu mến Người và để được Người yêu... Khi cầu nguyện khô khan... bạn vẫn còn tên Giêsu để lập đi lập lại theo nhịp hơi thở,”(12) biết rằng Chúa Giêsu nhìn xa hơn bạn và Người sẽ luôn luôn ban cho bạn những gì tốt nhất để bạn đạt được cuộc sống vĩnh cửu.
Ngoài cầu nguyện một mình, còn có cầu nguyện giữa hai vợ chồng. Phụ huynh thường phát triển thói quen đọc kinh chung trước khi dậy con cái cùng đọc như một gia đình. Vì khi đôi lứa học cầu nguyện, cách thức giản dị nhất thường là cách tốt nhất: tại sao không đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng? Chúng ta phải làm gương cho con cái và gieo trong lòng chúng hạt giống của sự ước muốn cầu nguyện.
Chúa Khao Khát
Một khi chúng ta quyết định bỏ ra mỗi ngày vài phút để đọc kinh, dù có bận rộn đến đâu, chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ thấy là biến cố nhỏ nhặt này mỗi ngày là những cơ hội để dậy con cái thờ phượng, ngợi khen, cảm tạ, và bộc phát lời xin tha thứ và xin giúp đỡ.
Tại sao lại không nói với Chúa như một gia đình? Tại sao không cám ơn Chúa như một gia đình trước mỗi bữa ăn Người ban cho? Tại sao không tâm tình với Người trong khi đi bộ trèo núi, quanh lửa trại, trên đường đến trường học hay sở làm? trong khi đi chợ mua thức ăn hay dọn dẹp nhà cửa, trên xe điện ngầm, và trong khi hối hả dưới phố? Chúng ta có thể cầu nguyện cho những người chúng ta đi ngang qua trên đường phố, cho người bị bệnh được xe cứu thương chở vào bệnh viện, cầu cho các nhà lãnh đạo chính trị, tôn giáo và truyền thông.
Nhiều trẻ em thích “trò chơi đức tính”, mỗi người nói lên một đức tính của người khác, và cảm tạ Thiên Chúa cho người ấy... Khi nghỉ hè, nghỉ lễ, chúng ta có thể đưa cho con cái một tập vở làm nhật ký: mỗi tối chúng có thể viết hay vẽ vào đó, để kể cho Chúa Giêsu những gì nó đã làm trong ngày.
Đây là một thói quen rất tốt nếu chúng ta biết giới thiệu chúng ngay từ khi còn bé đã biết thường xuyên đối thoại với Chúa Kitô, khi chúng ta cùng khám phá với chúng cách thức Người nói với chúng ta qua Thánh Kinh và giáo huấn của Giáo Hội.
Nếu phụ huynh khuyến khích con cái hàng năm trong khi chúng lớn lên, là phải tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ như giáo lý hay đoàn thể thiếu nhi, hay tham gia các phong trào Công Giáo Tiến Hành và cộng đồng – cả những phong trào mới hay cổ truyền – để chúng có thể sinh hoạt với bạn hữu cũng là bạn của Chúa Kitô, có nhiều hy vọng là chúng sẽ tiếp tục trung thành với đức tin của chúng trong suốt thời gian trưởng thành. Trong những môi trường như vậy, chúng sẽ được tăng cường bởi sự trợ giúp tinh thần và sự nhiệt thành của bạn hữu, và bởi sự hiện diện của những người lớn làm nhân chứng cho chân lý là cuộc đời đáng sống và đáng cho đi.
Những ai có thói quen cầu nguyện sẽ có ngày phải đối phó với một khám phá lạ lùng: Thiên Chúa muốn hết tất cả! Do đó tai sao không dâng cho Người tất cả mọi sự? Chúng ta có thể dâng lên Người những nỗi vui và nỗi buồn, những việc làm tốt và những thất bại, bài vở học hành và công ăn việc làm, những hy vọng và ước mơ của chúng ta. Nếu chúng ta muốn làm theo ý Chúa, tất cả cuộc đời chúng ta là kinh nguyện! Vì “Thiên Chúa khao khát được chúng ta khao khát Người,” chúng ta hãy đáp ứng với nỗi khát vọng của Chúa bằng cách luôn luôn tự nguyện sẵn sàng như Đức Mẹ, là Mẹ của Chúa và Mẹ chúng ta. Ngài suy ngẫm mọi sự trong lòng. Ngài sẽ đồng hành với chúng ta trên con đường quảng đại của ngài.(13)
___________________________________
(1) Benedict XVI, Thiên Chúa là Tình Yêu (Deus Caritas Est) (2005), số 1
(2) Thiên Chúa là Tình Yêu, Nt, số 15
(3) Thiên Chúa là Tình Yêu, Nt, số 17
(4) Thánh Josemaria Escriva, “Passionately loving the world”. Đối thoại với Đức Ông Escriva de Balaguer (Scepter Publishers, 2002).
(5) Xavier Abad, Eugene Fenoy, Le mariage, chemin de sainteté (Hôn Nhân, Con Đường Để Nên Thánh) (Édition Le Laurier, 1998).
(6) Thiên Chúa là Tình Yêu, Nt, số 31.
(7) The Eucharist: God’s Gift for the Life of the World, tài liệu căn bản cho Đại Hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ 49, 2008 (Édition Anne Sigier, 2006), 57.
(8) The Eucharist, nt, 59.
(9) Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 5, Valencia, 2006.
(10) Christine Ponsard, La foi en la famille (Niềm Tin Vào Gia Đình) (Éditions des Béatitudes, 2001), 31.
(11)The Eucharist, nt, 60.
(12) Jacques Gauthier, Prier: pourquoi et comment [Tại sao và làm thế nào để cầu nguyện] (Novalis et Presses de la Renaissance, 20006).
(13) Tài Liệu của Tổ Chức Công Giáo cho Đời Sống và Gia Đình (Ottawa, Canada)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Áng Chiều Tu Viện
Lm. Tâm Duy
01:24 07/07/2008
ÁNG CHIỀU TU VIỆN
Ảnh của Lm. Tâm Duy
![]() |
Chiều buồn tan tác ngập hồn mê..
(Trích thơ Nguyễn Thị Tê Hát)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền